Tìm kiếm Blog này

Chủ Nhật, 19 tháng 3, 2017

Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không

"Việc Mỹ quay lại ném bom Bắc Việt Nam đã làm cho cả Thế giới lùi lại vì ghê sợ."  
-Daily Mirror-
Sau thất bại của Quân lực Việt Nam Cộng hòa trong chiến dịch Lam Sơn 719, quân đội Bắc Việt Nam tại Miền Nam liên tục mở các cuộc tấn công vào các căn cứ và vị trí chiến lược của Việt Nam Cộng hòa như "Mùa hè đỏ lửa" trong năm tiếp theo, làm thất bại kế hoạch của Mỹ. Nhằm giữ thể diện của một siêu cường quân sự và để rút quân trong danh dự, Nước Mỹ đã tiến hành chiến dịch đánh bom lần cuối này với ý định"đưa miền Bắc về thời kỳ đồ đá", giảm bớt sự hỗ trợ quân sự của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho chiến trường Miền Nam.
Ngày 5 tháng 12, tổng thống Richard Nixon điện cho cố vấn an ninh Henry Kissinger:
"Hãy để một chỗ hở ở cửa cho cuộc họp tiếp. Tôi có thể sẵn sàng cho phép ném bom ồ ạt miền Bắc Việt Nam trong thời gian nghỉ ngơi đó" (ám chỉ kỳ nghỉ lễ Giáng Sinh).
Đêm ngày 12 tháng 12, Chánh văn phòng Nhà trắng Heizman thừa uỷ quyền của Tổng thống gửi một bức điện cho Henry Kissinger có đoạn viết:
"Chúng ta cần tránh làm bất cứ điều gì có vẻ như là chúng ta phá vỡ thương lượng một cách đột ngột. Nếu xảy ra tan vỡ thì phải làm như là do họ chứ không phải do chúng ta. Trong bất cứ trường hợp nào, Mỹ không được chủ động cắt đứt cuộc nói chuyện. Chúng ta cần yêu cầu hoãn cuộc họp để tham khảo thêm."
Ngày 14 tháng 12, tổng thống Nixon họp với cố vấn an ninh Henry Kissinger, đại tướng Alexander Haig và chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân-đô đốc Thomas Moorer thông qua lần cuối cùng kế hoạch Chiến dịch oanh tạc Hà Nội và miền Bắc Việt Nam bằng B-52 mang tên Linerbacker II. Nixon nói với đô đốc Moorer, Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân:
"Điều may mắn của ông là được sử dụng một các cách hiệu quả sức mạnh quân sự của chúng ta để thắng cuộc chiến tranh này. Nếu ông không làm được việc đó, tôi sẽ coi ông là người chịu trách nhiệm."
Ngày 14 tháng 12, Nixon gửi một tối hậu thư cho Hà Nội:
"Trong 72 giờ đồng hồ phải quay lại ký theo phương án Mỹ đề nghị, nếu không sẽ ném bom oanh tạc Bắc Việt Nam."

Về lý do quân sự, chính trị thì cuộc ném bom này không cần thiết, khi đó Mỹ đã quyết tâm rút quân khỏi Việt Nam. Họ biết rõ rằng không thể nào bắt Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhượng bộ một vấn đề cốt lõi mà họ đã chiến đấu gần 20 năm. Nó chỉ làm dư luận Mỹ và thế giới bất bình với chính phủ. Đây thực chất chỉ là cách để thể hiện trách nhiệm nghĩa vụ cuối cùng đối với đồng minh.
"Kissingger rời Paris ngày 13 tháng 12 thì ngày 14 phái đoàn ông Lê Đức Thọ cũng rời Paris. Trên đường từ Paris về Hà Nội, chúng tôi còn phải qua Moskva (ngày 15) và Bắc Kinh (ngày 17) để tiếp dầu.
Bay ngang bầu trời Bắc Kinh, chúng tôi nhận được thông tin: "Có hoạt động của B-52 ở Utapao - Thái Lan và Guam - ngoài khơi Thái Bình Dương". Máy bay xuống sân bay Gia Lâm khoảng hơn 6 giờ chiều. Ông Lê Đức Thọ yêu cầu chúng tôi đừng về thăm nhà vội mà cắm trại tại số 6 Nguyễn Cảnh Chân (nhà riêng ông Thọ, lúc này con cháu cũng đi sơ tán hết, chỉ còn bà ở nhà đợi ông về).
Khoảng hơn 1 giờ sau thì B-52 đánh. Trời đất sáng rực vì tên lửa và cao xạ bắn lên, đất rung ầm ầm, mảnh đạn rơi vào sân nhà, vào vườn rào rào. Chúng tôi không xuống hầm dù mỗi người đều có hầm cá nhân ở trong vườn. Hết đợt bom lại lên...
Khi quay lại bàn đàm phán ở Paris, ông Lê Đức Thọ đã rất nhẹ nhàng và mỉa mai khi nói chuyện với Kissinger và giới ngoại giao ở Paris: "Mỹ đã đón tiếp khi tôi trở về Hà Nội "hết sức lịch sự"..."
-Thư ký Lưu Văn Lợi-
Phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa:
"Sớm muộn đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B-52 ra ném bom Hà Nội rồi có thua mới chịu thua. Chú nên nhớ trước khi đến Bàn Môn Điếm ký hiệp định đình chiến ở Triều Tiên, Mỹ đã cho không quân hủy diệt Bình Nhưỡng. Ở Việt Nam, Mỹ nhất định thua, nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội."
-Hồ Chí Minh-
Từ tháng 5/1972, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và các cán bộ tham mưu tác chiến của Quân chủng Phòng không-Không quân đặt vấn đề: "Tỷ lệ B-52 bị bắn rơi mức độ nào thì Nhà Trắng rung chuyển, mức độ nào thì Mỹ không chịu nổi, phải thua?". Sau mấy tuần, câu trả lời đã được đưa ra:
N1 - tỷ lệ Mỹ chịu đựng được là 1-2 % (trên tổng số B-52 tham chiến của Mỹ)
N2 - tỷ lệ làm Nhà Trắng rung chuyển là 6-7 %
N3 - tỷ lệ buộc Mỹ thua cuộc là trên 10 %.
Quân chủng Phòng không-Không quân loại trừ N1, quyết tâm đạt N2 và vươn tới N3. Quân chủng Phòng không-Không quân đã thực hiện vượt mức chỉ tiêu N3. Trong 12 ngày đêm mùa đông năm 1972, tỷ lệ B-52 bị bắn hạ là 17,6 % (34/197 chiếc, Hà Nội góp công trong đó 23 chiếc).
Lực lượng các bên:
Không quân-hải quân Mỹ:
Gần 1/2 số máy bay chiến lược B-52 của toàn nước Mỹ: 197/400 chiếc.
Hơn 1/3 số máy bay chiến thuật của toàn bộ nước Mỹ: 1.077/3.041 chiếc.
1/4 số tàu sân bay của nước Mỹ:
USS America (CVA-66)
USS Enterprise (CVAN-65)
USS Midway (CVA-41)
USS Oriskany (CVA-34)
USS Ranger (CVA-61)
USS Saratoga (CVA-60  

Đi kèm là nhiều loại tàu khác: chỉ huy-dẫn đường, khu trục, tên lửa, radar, hộ vệ, cấp cứu, sửa chữa... của Hạm đội 7 Thái Bình Dương.
Số liệu trên chưa tính tới 50 máy máy bay tiếp dầu trên không và một lượng lớn các máy bay phục vụ khác như: gây nhiễu điện tử, trinh sát có và không người lái, chỉ huy, dẫn đường, liên lạc, cấp cứu...
Chỉ tính riêng Không quân chiến thuật thì trong Linebacker II Mỹ đã huy động số máy bay bằng tổng lực lượng không quân của Anh (600 chiếc) và Tây Đức (500 chiếc) là 2 nước có không quân mạnh nhất NATO hồi đó.
Số máy bay chiến lược, chiến thuật được Mỹ sử dụng vào cuộc tập kích chiến lược này đều là những loại hiện đại nhất thời đó. Phần lớn đã được cải tiến, hoàn hảo hơn nhiều so với thời kỳ 1965-1968:
Máy bay ném bom chiến lược: 
- B-52 Stratofortress (Pháo đài chiến lược).
Máy bay chiến thuật:
- F-111 Aardvark (Con lợn đất)
- F-4 Phantom (Con ma)
- F-105 Thunderchief (Thần sấm)
- A-4 Skyhawk (Chim ưng nhà trời)
- A-6 Intruder (Kẻ xâm nhập)
- A-7 Corsair (Cướp biển).

Máy bay gây nhiễu điện tử:
- EA-6 Prowler
- EB-66 Destroyer
- EC-121 Batcat.
Máy bay tiếp dầu trên không:
- KC-135 Stratotanker.
Máy bay trinh sát có người lái tầng thấp:
- RF-4C Phantom
- RA-5C Vigilante
Máy bay trinh sát không người lái tầng thấp:
- 147SB/SC/SK
- 147SRE
Máy bay trinh sát có người lái tầng cao:
- SR-71

Máy bay trinh sát không người lái tầng cao:
-  BQM-34A
Căn cứ xuất phát:
Máy bay B-52 cất cánh từ căn cứ Anderson trên đảo Guam và căn cứ Utapao ở Thái Lan.
Máy bay chiến thuật cất cánh từ 6 sân bay ở Thái Lan: Udon, Ubon, Takhli, Korat, Nakhon Phanom, Nam Phong và từ 6 tàu sân bay: Enterprise, America, Ranger, Midway, Oriskany, Saratoga đậu rải trên một khu vực rộng gọi là Trạm Yankee ở biển Đông, kéo dài từ Đông Thanh Hóa đến Đông Đà Nẵng.
Ngoài ra, tất cả các căn cứ hậu cần, kỹ thuật của Quân đội Mỹ tại Đông Nam Á như Clark, Subic tại Philippines, Okinawa tại Nhật Bản đều được sử dụng để phục vụ cho trận đại oanh kích này.
Để chỉ huy chung 2 căn cứ Anderson và Utapao, Lầu Năm góc đã cấp tốc thành lập một Bộ chỉ huy lâm thời, do Đại tướng John Vogt làm Tư lệnh, đóng ở Utapao.
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa:
Khu vực Hà Nội có sư đoàn phòng không 361 gồm 3 trung đoàn tên lửa phòng không 257, 261, 274 (E274 chỉ có 2D), 5 trung đoàn pháo cao xạ 220, 221, 212, 244, 260. Dân quân tự vệ có 226 đội, trang bị 741 pháo và súng phòng không, trong đó có 4 đại đội trang bị 20 khẩu 100 mm.
Khu vực Hải Phòng có sư đoàn phòng không 363 gồm 2 trung đoàn tên lửa phòng không 238, 285, 1 trung đoàn pháo cao xạ 252. Quân khu Tả Ngạn có 1 trung đoàn pháo cao xạ 272 và 4 tiểu đoàn độc lập. Dân quân tự về có 90 đội, trong đó có 12 khẩu 100 mm.
Khu vực đường 1 Bắc (Lạng Sơn, Hà Bắc) có sư đoàn phòng không 375 gồm 1 trung đoàn tên lửa 268 (không tham chiến do không đảm bảo kỹ thuật), 5 trung đoàn pháo cao xạ 282, 224, 216, 240, 214. Quân khu Tả Ngạn có 2 tiểu đoàn độc lập. Dân quân tự vệ có 112 đội, trang bị 112 khẩu súng máy phòng không.
Khu vực Bắc Thái và Yên Bái có 1 trung đoàn pháo cao xạ 256 của Quân khu Việt Bắc ở Thái Nguyên, gồm 2 đại đội 100 mm và 3 đại đội 37 mm.
Ở Yên Bái có 1 trung đoàn pháo cao xạ 254. Dân quân tự vệ có 15 đội, trang bị 65 khẩu súng máy phòng không.
Hướng đường 1 Nam có 3 trung đoàn tên lửa 275, 267, 263 và pháo cao xạ đánh phối hợp chiến dịch.
Không quân có 4 trung đoàn: 921 (Sao Đỏ - MiG-21), 927 (Lam Sơn - MiG-21), 923 (Yên Thế - MiG-17) và 925 (MiG-19).


---
Trong một phi vụ oanh tạc, máy bay B-52 thường đi thành nhóm ba chiếc theo đội hình mũi tên, trên độ cao 9-10 km và ném gần 100 tấn bom (mỗi chiếc ném hơn 30 tấn) với mật độ dày đặc xuống một khu vực rộng khoảng 2,5 km². Nếu một quả bom tiêu chuẩn là 500 pound (gần 250 kg) thì mật độ bom rơi là khoảng 130 quả trên 1 km², tức là khoảng cách trung bình giữa hai hố bom cạnh nhau là khoảng 80 mét. Với mật độ ném bom cao như vậy, xác suất hủy diệt sinh mạng và phá hủy công trình trong bãi bom B-52 sẽ là cực cao.


Trong "Chiến tranh 6 ngày" năm 1967, Israel đã tịch thu được hơn 20 hệ thống SAM-2 nguyên vẹn bị quân Arab bỏ lại khi rút chạy, nhờ vậy Mỹ đã nắm được tường tận chi tiết của hệ thống này. Năm 1969, đến lượt một hệ thống radar cảnh giới P-12 của Ai Cập bị Israel bắt giữ nguyên vẹn, toàn bộ kết quả phân tích được chuyển giao cho Mỹ.
Như vậy đến năm 1970, các loại radar và tên lửa phòng không chủ yếu của Bắc Việt Nam đều đã bị Mỹ nắm bắt và Mỹ đã chế tạo ra các thiết bị gây nhiễu rất hiệu quả.
Phiên bản B-52G có khoang lắp đặt thiết bị điện tử được mở rộng để lắp hệ thống gây nhiễu mới. B-52G được trang bị 16 máy gây nhiễu điện tử tích cực, 2 máy gây nhiễu tiêu cực và 2 máy thu tần số radar để tạo màn nhiễu dày đặc che toàn bộ máy bay trước hệ thống radar, tên lửa phòng không của đối phương. Các thiết bị này sẽ tự động thu, phân tích tần số sóng radar của đối phương và cung cấp cho sĩ quan điều khiển để lựa chọn phát tần số sóng để chế áp.
Ngoài ra, B-52G còn được lắp 4 đạn tên lửa "chim mồi" ADM-20. Khi được phóng, ADM-20 sẽ giả lập tín hiệu giống máy bay B-52 để tạo mục tiêu giả thay cho B-52 nhằm đánh lừa tên lửa của đối phương.
Với vai trò là máy bay ném bom chiến lược, các phi đội B-52 không hoạt động độc lập mà được hộ tống bởi các máy bay trinh sát điện tử EA-6A, EB-66, EC-121 và các chiến đấu cơ F-4 Phantom, F-105 Thunderchief, A-6 Intruder và A-7 Corsair với các thiết bị gây nhiễu chủ động và thụ động đi kèm. Rất nhiều phi đội F-4 đã giả lập tín hiệu nhiễu của B-52 hòng lừa lưới lửa phòng không đối phương.
Các máy bay F-4 còn thả các "bom" gây nhiễu gồm hàng triệu sợi kim loại màu bạc, rất mỏng nhẹ (mỗi quả bom chứa 450 bó nhiễu), các sợi kim loại gây nhiễu này nhẹ có thể làm radar không thể nhận diện được các mục tiêu, nặng thì làm trắng xóa màn hình radar (mất hoàn toàn khả năng theo dõi và bám mục tiêu). Các biện pháp gây nhiễu tổng hợp của Mỹ khiến radar của hệ thống phòng không gặp nhiễu, không thể phát hiện và khóa bắn được B-52. Các đài radar nhìn vòng P-12 của các tiểu đoàn tên lửa SAM chỉ thu được các giải nhiễu đậm đặc, có lúc làm trắng xóa cả màn hình.
Để kiểm chứng khả năng của hệ thống gây nhiễu, rạng sáng ngày 16 tháng 4 năm 1972, bắt đầu từ 2 giờ 15 phút, Mỹ huy động 20 máy bay B-52 và 170 chiếc máy bay cường kích, ném bom ba trận lớn vào Hải Phòng. 103 nơi trong thành phố bị bom Mỹ tàn phá như các khu phố Thượng Lý, Hạ Lý, Cầu Tre, bến cảng và thôn Phúc Lộc (Kiến Thụy)... Bom Mỹ đã giết và làm bị thương 757 người dân Hải Phòng. Hai trung đoàn tên lửa số 238 và 285 đã phóng lên đến 93 quả tên lửa SAM-2 nhưng không diệt được chiếc B-52 nào vì bị gây nhiễu quá nặng.
Với một loạt các biện pháp kỹ thuật và chiến thuật, không quân Mỹ tự tin rằng hệ thống phòng không của Bắc Việt Nam sẽ không thể chống trả được. Mỹ tin rằng B-52 chỉ có thể bị rơi do thời tiết, hoặc do trục trặc kỹ thuật chứ quyết không thể bị bắn rơi vì hỏa lực của phòng không–không quân Việt Nam, cuộc tập kích của B-52 vào miền Bắc Việt Nam sẽ chỉ như "một cuộc dạo chơi"  với tổn thất ở mức tối thiểu.
Ở thời điểm năm 1972, SAM-2 là loại tên lửa phòng không duy nhất có trong trang bị của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Được sản xuất vào giữa thập niên 1950, đến thời điểm năm 1972, SAM-2 đã tỏ ra khá lạc hậu so với SAM-5, SAM-6 của Liên Xô.
Sau 19 ngày Mỹ đem thả bom ở đèo Mục Giạ, tây bắc Quảng Bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói ngày 19 tháng 7 năm 1965:
"Dù Mỹ có B-57, B-52 hay B gì đi nữa, ta cũng đánh mà đánh là nhất định thắng. Các chú muốn bắt cọp phải vào hang."
Qua theo dõi trong hai mùa khô năm 1968-1969 và 1969-1970, nhóm cán bộ kỹ thuật phát hiện có một loại radar máy bay B-52 không gây nhiễu được. Trên cơ sở đó, cuối năm 1971, một tổ cán bộ nghiên cứu đề xuất một công trình nghiên cứu cải tiến kỹ thuật: Dùng loại radar không bị máy bay B-52 gây nhiễu ghép nối với đài điều khiển phục vụ tên lửa đánh B-52.
Tháng 1 năm 1972, tổ nghiên cứu hoàn thành bản vẽ thiết kế, sau đó chuyển đến Tiểu đoàn 76, Trung đoàn tên lửa 257 lắp ráp thành bộ khí tài mới. Tháng 6 năm 1972, Cục Kỹ thuật cung cấp bản vẽ và một số mẫu cho nhà máy Z119 thuộc Cục Quân giới để lắp ráp 6 bộ khí tài mới. Các bộ khí tài mới mang ký hiệu KX.
Cùng với bộ khí tài KX, các tổ radar cũng nghiên cứu khả năng "vạch nhiễu" ở các loại radar khác, nhằm phát hiện được mục tiêu B-52 vốn rất mờ nhạt trong dải nhiễu. Các dạng nhiễu có đủ kiểu, đủ loại với những tên gọi khác nhau được đặt theo hình dáng như: nhiễu quét, nhiễu giọt mưa, nhiễu xoắn thừng, nhiễu râu... Tháng 10 năm 1972, tập tài liệu mang tên "Cách đánh B-52 của bộ đội tên lửa" được in, gọi tắt là cuốn "cẩm nang bìa đỏ", dày 30 trang đánh máy và được bọc ngoài một tờ bìa màu đỏ. Trong cuốn sách là kinh nghiệm phân biệt mục tiêu thật-giả trước màn hiện sóng để bộ đội tên lửa có thể ngắm trúng mục tiêu.

Cuốn "Cẩm nang bìa đỏ" cho biết:
Tuy không quân Mỹ gây nhiễu dày đặc nhưng trong mớ hỗn loạn các loại tín hiệu nhiễu trên màn hiện sóng, B-52 không phải là hoàn toàn vô hình, nếu tinh mắt vẫn có thể phát hiện được mục tiêu B-52 một cách gián tiếp: đó là các đám nhiễu tín hiệu mịn trôi dần theo tốc độ di chuyển của B-52. Tuy mục tiêu không hiển thị rõ rệt để có thể xác định mục tiêu và điều khiển tên lửa chính xác nhưng cẩm nang đã đề ra biện pháp bắn theo xác suất: bắn một loạt đạn tên lửa vào đám nhiễu theo cự ly giãn cách nhất định sẽ có xác suất tiêu diệt mục tiêu khá cao, phương án bắn xác suất này được "cẩm nang" gọi là "phương án P".
Khi mục tiêu B-52 đi thẳng vào đài phát cường độ nhiễu sẽ tăng lên nhưng tín hiệu mục tiêu sẽ tăng mạnh hơn, mục tiêu sẽ hiển thị rõ nét hơn, đây là thời cơ có thể bắn điều khiển tên lửa chính xác theo "phương án T", khi đó chỉ cần 1 đến 2 quả tên lửa, B-52 sẽ phải rơi tại chỗ.
Trong "cẩm nang" đồng thời cũng đề ra các hướng dẫn cụ thể cho các cấp chỉ huy các tiểu đoàn tên lửa về công tác chỉ huy, cách chọn giải nhiễu, chọn thời cơ phát sóng, cự ly phóng đạn, phương pháp bắn, phương pháp bám sát mục tiêu trong nhiễu...
Một chiến thuật khác là "phương pháp bắn 3 điểm" dựa trên bộ khí tài hiện có. Khi B-52 vào Hà Nội, cường độ gây nhiễu cũng đã bị phân tán. Hướng này bị nhiễu nặng, song ở hướng khác, hai bên sườn, phía trước, phía sau,... các đơn vị tên lửa lại có thể phát hiện được B-52 trên nền nhiễu. Quân đội Nhân dân Việt Nam đã bố trí đội hình tên lửa đánh bọc lót cho nhau, sao cho mỗi tốp máy bay Mỹ có thể bị công kích từ nhiều hệ thống tên lửa ở nhiều hướng, sử dụng phương pháp bắn 3 điểm và linh hoạt sử dụng phương pháp bắn đón nửa góc khi thấy mục tiêu.
Ngoài ra còn có kỹ thuật điều khiển bắn bằng quang học thay cho radar. Các kíp chiến đấu nhận thấy việc bám sát chia đôi dải nhiễu như trước đây không còn phù hợp và sẽ khó tiêu diệt được máy bay, trắc thủ hai góc phải bám sát dải nhiễu như thế nào để đưa máy bay địch vào đúng tâm cánh sóng thì mới có thể bám bắt và khai hỏa. Phương án sử dụng trắc thủ quang học để chỉ chuẩn cho các trắc thủ tay quay xe điều khiển bám sát. Từ năm 1968, các chuyên gia Liên Xô đã tiến hành lắp thêm kính quang học PA-00 trên nóc anten phương vị của xe thu phát. Thiết bị này được thiết kế để khi hai trắc thủ quang học bám sát chính xác vào một máy bay thì hai trắc thủ góc tà và phương vị của xe điều khiển cũng bám sát đúng vào chiếc máy bay đó, mặc dù trên màn hiện sóng là dải nhiễu tạp. Ngoài ra, đài radar P-12 của tiểu đoàn xác định chính xác cự li mục tiêu để chọn cự ly phóng đạn phù hợp.
Về phía Mỹ, vũ khí lợi hại là tên lửa chống radar Shrike. Tên lửa Shrike sau khi phóng sẽ tìm và "bắt" mục tiêu theo sóng radar rồi lao thẳng vào gây nổ, là vũ khí chuyên dụng để phá hủy các hệ thống phòng không đối phương. Khi cách radar vài chục mét thì tên lửa phát nổ lần thứ nhất, văng ra hàng vạn viên bi vuông để phá hủy radar, tiếp đó phần còn lại lao xuống đất nổ lần thứ 2 để phá hủy nốt. Tại Trung Đông, hàng chục hệ thống radar của Khối Arab từng bị loại tên lửa này phá hủy, khiến lực lượng này mất khả năng chiến đấu.
Quân đội Việt Nam đã nghiên cứu, vô hiệu hóa bằng cách phát sóng tức thì, tắt máy đột ngột và quay đài anten đi hướng khác, tên lửa Shrike cứ thế lao theo quán tính và rơi chệch trận địa. Cùng với trận địa chính, bộ đội Việt Nam làm nhiều trận địa giả, sau mỗi lần phóng tên lửa lại nhanh chóng kéo bệ sang trận địa khác. Những quả tên lửa giả được làm bằng cót, phủ sơn trông như thật. Khi tên lửa thật phóng đạn, thì các bệ tên lửa giả cũng đốt rơm, tạo khói mù mịt, đánh lừa máy bay Mỹ. Nhờ vậy trong suốt 12 ngày đêm của chiến dịch, chỉ có một số ít trận địa phòng không bị đánh trúng, lực lượng phòng không Việt Nam vẫn bảo toàn được lực lượng để tiếp tục chiến đấu.
"Việc phát triển chiến thuật để đối phó với đối phương vượt trội về công nghệ là nhiệm vụ thường trực. Rốt cuộc, chính Liên Xô cũng phải học tập những chiến thuật của chúng tôi. Về mặt kỹ thuật, người Liên Xô là thầy của chúng tôi, nhưng về mặt thủ thuật, chúng tôi là thầy của họ."
-đại tá Nguyễn Văn-
Trận đánh
Ngày 18 - 12 - 1972
"Đồng bào chú ý! Đồng bào chú ý! Máy bay địch cách Hà Nội 50 cây số về phía tây. Các lực lượng vũ trang sẵn sàng chiến đấu. Đồng bào cần bình tĩnh vào hầm trú ẩn..."
---
Sáng ngày 18 tháng 12, Bộ Tổng Tham mưu điện cho các đơn vị: cần đề phòng địch dùng B-52 đánh phá các mục tiêu trọng điểm. Các binh chủng pháo cao xạ, tên lửa, radar, không quân, pháo binh sẵn sàng chiến đấu kịp thời đánh trả máy bay, tàu chiến địch. Tổ chức quan sát, báo động, có kế hoạch sơ tán, đào hầm hào, phối hợp với công an và nhân dân làm tốt công tác bảo vệ an ninh, bảo vệ tài sản...
Phủ Thủ tướng cũng điện cho các Bộ và cơ quan: Địch có thể ném bom Hà Nội-Hải Phòng, cần thực hiện tốt kế hoạch sơ tán của thành phố.
10 giờ 15 phút, một chiếc máy bay không người lái của Mỹ bay từ hướng Tây Bắc vào trinh sát Hà Nội. Các đơn vị radar phát hiện báo cáo về Tổng trạm radar và sở chỉ huy Quân chủng Phòng Không.
18 giờ 30 phút, trạm radar 12 trung đoàn 290 ở Quảng Bình và trạm radar 16 trung đoàn 291 ở Nghệ An phát hiện có nhiều máy bay ném bom B-52. Tiếp đó, trạm radar 45 trung đoàn 291 ở Nghệ An khẳng định: "B-52 đang bay tới Hà Nội".
19 giờ 10 phút, các đài radar cảnh giới của binh chủng radar đồng loạt báo cáo về sở chỉ huy trung tâm:
"B-52 đang bay vào hướng Hà Nội."
19 giờ 15 phút, lệnh báo động được đưa ra khắp Hà Nội, Hải Phòng và một số tỉnh trên miền Bắc.
19 giờ 25 phút, không quân Việt Nam được lệnh cất cánh đón đánh các tốp máy bay chiến thuật Mỹ (F-4, F-8, F-111, A-6, A-7...). Cùng lúc ở Tam Đảo, các đài quan sát dồn dập báo về Sở chỉ huy trung tâm: Máy bay F-111 ném bom sân bay Nội Bài, Kép... Sở chỉ huy Bộ Tư lệnh Thủ đô ra lệnh báo động toàn thành phố. Lập tức, còi báo động từ Nhà hát Lớn, Quảng trường Ba Đình, ga Hàng Cỏ và nhiều nơi nội và ngoại thành nổi lên khẩn cấp.  
Từ 19 giờ 20 phút đến 20 giờ 18 phút, nhiều tốp máy bay B-52 (mỗi tốp 3 chiếc) liên tiếp dội bom xuống khu vực sân bay Nội Bài, Đông Anh, Yên Viên, Gia Lâm... Cuộc chiến đấu ác liệt của lực lượng phòng không ba thứ quân bảo vệ Hà Nội bắt đầu, mở đầu chiến dịch 12 ngày đêm "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không".
"Tất cả các tín hiệu mục tiêu đều biến mất trong đám nhiễu trắng xóa khắp màn hiện sóng. Màn hiện sóng trước mặt sĩ quan điều khiển và các trắc thủ hiện lên các vạch xanh đậm đan chéo chằng chịt với nhau và biến đổi không ngừng, các dải nhiễu chằng chịt nối tiếp nhau xuất hiện, tụ vào rồi lại tan ra trước khi xuất hiện hàng trăm, hàng nghìn đốm sáng trùm lên màn hiện sóng giống cả đám tín hiệu mục tiêu đang di chuyển hỗn loạn. Với cả mớ tín hiệu hỗn loạn đi kèm với màn hiện sóng radar chập chờn trôi xuống liên tục giống như trận mưa trút nước..."
-Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Phiệt-
Trên các xe điều khiển, các kíp trắc thủ điều khiển tên lửa cố gắng bám theo dải nhiễu B-52 nhờ đài radar cảnh giới P-12 thay vì bật radar điều khiển "Fan Song" để tránh làm lộ vị trí đài phát trước đám tiêm kích chế áp phòng không mang tên lửa chống radar. Tuy vậy, việc bám mục tiêu thụ động cũng không mấy hiệu quả do bị nhiễu quá nặng.
Tầng tầng lớp lớp các loại nhiễu nhìn giống những chiếc nan quạt lớn chồng chéo lên nhau cùng xổ xuống, xóa nhòa tất cả các dải tần, làm lóa mắt kíp trắc thủ. Tín hiệu mục tiêu xoắn quện, vón cục rối bời với nhau trông như một cuộn len.
Khi đội hình B-52 tới gần mà radar cảnh giới của đơn vị vẫn không phát hiện được mục tiêu, tiểu đoàn trưởng Nguyễn Chấn đã quyết định mở máy phát sóng sục sạo mục tiêu. Ngay sau đó sĩ quan điều khiển đã bám được vào dải nhiễu của một chiếc B-52 và nhấn nút chuyển tín hiệu bám mục tiêu sang màn hiện sóng của 3 trắc thủ. Trắc thủ cự li Đinh Trọng Duệ hô to "B-52" rồi cùng các trắc thủ khác thao tác tinh chỉnh cự li, phương vị và góc tà bám sát dải nhiễu.
Cách Hà Nội vài cây số về hướng bắc, Tiểu đoàn tên lửa 59 phóng cả 4 đạn đều trượt mà lại còn bị đối phương quăng bom trùm lên trận địa. Lúc này, trong khi đang quan sát đội hình ném bom của đối phương bay vào trên màn hiện sóng radar P-12 và bảng tiêu đồ kế bên, tiểu đoàn trưởng Nguyễn Thăng nhận được lệnh từ sở chỉ huy Trung đoàn 261 giao nhiệm vụ diệt tốp mục tiêu 671 có độ cao 10.000 mét. Tiểu đoàn trưởng Thăng lệnh ngay cho sĩ quan điều khiển Dương Văn Thuận:
"Mục tiêu, phương vị 350, cự li 30 km, độ cao 10.000 mét, phát sóng."
Thuận đánh tay quay chỉnh anten về góc phương vị 350 rồi bật công tắc phát sóng bắt mục tiêu. Sau 4 giây lên sóng, khi thấy trên màn hiện sóng hiện lên các dải nhiễu cho thấy đội hình một biên đội 3 chiếc B-52, Thuận báo cáo tiểu đoàn trưởng Nguyễn Thăng:
"Phát hiện mục tiêu, phương vị 352, không rõ cự li, độ cao 10.000 mét, theo tốp, bay vào."
Thăng chuyển qua ngó màn hiện sóng trước mặt sĩ quan điều khiển rồi quay lại vị trí để kiểm tra tín hiệu tốp mục tiêu trên màn hiện sóng chỉ huy và đường bay trên bảng tiêu đồ, sau đó ra lệnh cho Thuận chuẩn bị phóng 2 đạn.
Thuận nhấn nút phóng liền 2 đạn rồi cùng các trắc thủ tập trung vào màn hiện sóng và tay quay, vừa bám sát mục tiêu vừa lái đạn. 24 giây sau khi các quả đạn được phóng đi, đèn báo hiệu ngòi nổ cận đích của quả đạn đầu tiên rồi quả thứ hai nháy sáng trên bảng điều khiển báo hiệu đạn nổ tốt. Trắc thủ phương vị và trắc thủ góc tà lần lượt báo cáo tín hiệu dải nhiễu của mục tiêu biến mất trên màn hiện sóng phương vị và nhanh chóng tụt độ cao trên màn hiện sóng góc tà. Chiếc B-52 có mật danh liên lạc Charcoal 1 của Bob Certain bị bắn hạ khi đã tới sát mục tiêu rải bom, 3 trong số 6 phi công tử trận. Đó là chiếc B-52 đầu tiên bị hạ trong chiến dịch.
"Sau khi tiếp cận mục tiêu, khoảng 15 giây trước khi không kích theo kế hoạch, chúng tôi bắt đầu mở khoang chứa bom. Nhưng chỉ 5 giây sau, chúng tôi đã bị 2 quả tên lửa đất đối không SAM-2 tấn công. Tên lửa nổ ngay sát máy bay và chúng tôi hứng trọn các mảnh vỡ khi bay xuyên qua chúng. Máy bay của chúng tôi bị hỏng một vài động cơ, có thể là 4 chiếc phía bên trái. 2 thành viên phi hành đoàn bị thương nặng và máy bay bắt đầu bốc cháy, nguy cơ nổ rất cao, buộc chúng tôi phải nhảy dù."
-Bob Certain-
Thoát khỏi chiếc B-52 đã mất khả năng kiểm soát, qua ánh trăng rằm vằng vặc, viên hoa tiêu Bob Certain nhìn rõ một rặng cây, nơi có thể trở thành chốn ẩn náu tạm thời trước khi tính chuyện liên lạc với đội giải cứu. Nhưng thấp thoáng dưới bóng cây lại là những mái rạ của một làng quê nhỏ. Sợ bị bắt, Bob hướng dù ra một thửa ruộng mới cày ngay cạnh con mương cạn. 

Tuy nhiên, không lâu khi chạm đất, viên sỹ quan không quân Mỹ đã bị một phụ nữ phát hiện. Trong chốc lát, dân làng vây kín thửa ruộng trong cơn thịnh nộ ngút trời. Bob Certain bắt đầu mường tượng đến một kết cục tồi tệ nhất. Nhưng ông không ngờ rằng "đối tượng" lại nhân đạo đến vậy đối với kẻ vừa dội bom tàn phá đất nước họ, sát hại người thân họ, đồng bào họ.
"Dân làng rất giận dữ nhưng các dân quân tự vệ đã bảo vệ tôi. Tôi được đưa vào một ngôi nhà và thấy một viên chức địa phương đang ghi thông tin từ thẻ căn cước của tôi. Lúc đó, người dân ở bên ngoài không còn tỏ thái độ thù địch với tôi nữa. Dân quân đã lấy một số bàn trong phòng để che cửa sổ, phòng khả năng tôi bị bắn từ bên ngoài. Tôi bị đưa về nhà tù Hỏa Lò qua một bến phà trên sông Hồng. Lúc đó tôi rất sợ và đã chuẩn bị sẵn tinh thần. Tôi lo rằng mình sẽ bị ép cung, tra tấn, nhục hình, nhưng điều đó đã không xảy ra."
---
"Đêm 18-12-1972
Hồi kẻng báo động sơ tán đầu tiên lúc 7 giờ đã làm hơi men cuối cùng của buổi liên hoan với C9 trong mình bị bay ra hết.
Có cảm giác đêm nay sẽ ác liệt. Ban chiều trong hội nghị các đại đội trưởng và chính trị viên toàn trung đoàn, đồng chí phó chính ủy đã thông báo về cuộc đàm phán ở Paris bị bế tắc. Bọn Mỹ không chịu ký kết, vẫn âm mưu đình chiến trên thế mạnh.
Thế nào chúng cũng "gây sức ép tối đa" với ta. Con chủ bài cuối cùng của bọn Mỹ là B-52 đã liều lĩnh bay ra ném bom Hà Nội. Bây giờ đã hơn 12 giờ đêm mà cả hầm mình không đứa nào ngủ được. Từng vầng lửa bừng lên ở phía Hà Nội. Sau khoảng nửa phút là từng tràng bom nổ rung chuyển cả hầm. Tiếng bom B-52 nghe rền rền như nghe từng hồi trống để sát tai mà gõ.
Đợt đầu tiên, bọn Mỹ dùng A-6, A-7, F-111 đánh hết các sân bay của mình. Yên Bái, Hòa Lạc, Kép, Gia Lâm, Vĩnh Phú, Miếu Môn rồi Kiến An nữa. Sân bay mình bị 3 dải B-52.
Bọn bạn bay đêm ở trung đoàn 921 cất cánh. Nhiễu làm mờ hết radar. Bọn F-4 bắn tên lửa tới tấp vào chúng. Trong tiếng bom, tiếng súng loạn xạ sáng trời, ông Cung bay từ Hòa Lạc về đây hạ cánh sau khi đánh không được. Bom đầy sân mà ông hạ được. Phục nhất là thằng Tuân hạ cánh. Hệ thống đèn hiệu ở sân bay hỏng hết. Mây thấp. Dầu hết. Đang không tìm thấy sân bay thì một chiếc B-52 bị tên lửa bắn cháy lao xuống, soi sáng cả một khoảng lớn.
Thế là nó lao xuống hạ. Chạm đất, máy bay bị rơi vào mấy hố bom, cứ nhảy lên, nhảy xuống. Cuối cùng máy bay lật ngửa, lăn kềnh trên cỏ. Nó đu chân đạp vỡ nắp buồng lái chui ra.
Chỉ riêng hành động ấy cũng đáng được tặng thưởng huân chương rồi. Ban nãy lúc 9 giờ, chúng mình đùa nó như thế!
Đêm nay, bao nhiêu đồng bào mình bị hy sinh vì bom đạn giặc Mỹ. Nằm đây mà lòng nôn nao, bứt rứt..."
-Nhật ký Nguyễn Đức Soát-
Ngày và đêm 19 - 12 - 1972:
"Mới 7 giờ tối, bọn Mỹ lại vào. Đêm qua chúng đánh ba đợt lớn B-52. Tiếng súng tiếng bom suốt đêm không ngớt. Ta bắn rơi 5 máy bay Mỹ, có 3 B-52. Một chiếc rơi ở ngay Phủ Lỗ, ba giặc lái bị tóm gọn.
Sáng sớm hôm nay khi mình vừa thông báo có lệnh đi cơ động, mọi người trong đại đội đến xin đi. Sâm dẫn thằng Bồng, Kiền, Hùng xuống Gia Lâm.
Mình tổ chức cho bộ đội bàn kỹ phương án đánh B-52 ban ngày. Chúng mình quyết tâm, đã gặp nó thế nào cũng bắn rơi. Nhiều đứa nói nếu hai phát tên lửa mà nó chưa chịu rơi tại chỗ thì còn phát tên lửa thứ ba nữa: đó là chiếc máy bay thân yêu và cả một trái tim nóng bỏng căm thù!
Sau khi hội ý với anh Năng, mình để đại đội vào ngủ trong hầm trong, sau cửa sắt. Ngủ thế này tuy ngạt nhưng chắc chắn. Lực lượng chiến đấu chủ yếu của những trung đoàn chỉ có đại đội mình thôi.
...
Bọn Mỹ đã đánh một đợt đêm nay rồi. Chúng đánh hầu hết các mục tiêu quanh Hà Nội: Yên Viên, Đông Anh, Gia Lâm, Chàm, Phà Đen. Nhà ga máy bay Gia Lâm bị cháy đêm đầu. Ta bị cháy 1 chiếc UV-18, 2 AH-24 và 2 MU-4. Sốt ruột quá! Bao nhiêu là hàng hóa của ta bị phá! Và hơn thế, cuộc sống ấm cúng của bao gia đình bị nát tan.
Ngày mai mình sẽ trực. Đường băng chính hỏng nặng. Đường lăn đã chữa xong. Ước muốn lớn nhất của mình lúc này: được trả thù.
Mình nguyện nếu gặp B-52 sẽ không để nó về được Utapao hay Guam!"
-Nhật ký Nguyễn Đức Soát-
4 giờ 30 phút rạng sáng ngày 19 tháng 12, B-52 ném bom đợt thứ 3 vào các khu vực Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam (Mễ Trì, huyện Từ Liêm), xã Nhân Chính (quận Thanh Xuân), nhà máy Cao su Sao Vàng (quận Thanh Xuân),... Các trận địa tên lửa, pháo phòng không với các đơn vị dân quân tự vệ Thủ đô bắn hàng ngàn viên đạn các loại, tiêu diệt một tiêm kích F-4.
Cùng thời gian này, Tiểu đoàn 77 Trung đoàn Tên lửa 257 bắn rơi tại chỗ một máy bay B-52D.
Sáng ngày 19 tháng 12, tổng tham mưu trưởng chỉ thị:
"Bộ đội tên lửa đêm chiến đấu, ngày ngụy trang sơ tán. Bộ đội radar phải thường xuyên theo dõi địch, quản lý vững chắc vùng trời cả ngày và đêm. Bộ đội pháo phòng không thường xuyên sẵn sàng chiến đấu cao và đánh thắng địch."
Đêm 18 rạng ngày 19 tháng 12, đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam đã đến ngay một số đơn vị phòng không-không quân và khu vực Đông Anh, Yên Viên nơi vừa bị B-52 của Mỹ ném bom, động viên thăm hỏi bộ đội và nhân dân Thủ đô.
Nhiều nước trên thế giới ra tuyên bố hoặc điện tới Tổng thống Mỹ Richard Nixon yêu cầu chấm dứt hành động dùng máy bay B-52 ném bom tàn phá Hà Nội, Hải Phòng và miền Bắc Việt Nam.
19 giờ 45 phút ngày 19 đến 5 giờ 20 phút ngày 20 tháng 12, máy bay B-52 tiếp tục ném bom Hà Nội, Hải Phòng. Riêng ở Hà Nội, 87 lần chiếc B-52 và hơn 200 lần chiếc máy bay cường kích F-111 ném 3 đợt bom xuống 68 điểm thuộc nội ngoại thành.
Sau 2 đêm đầu chiến đấu tuy quân dân miền Bắc đã đạt được những thắng lợi nhất định nhưng lực lượng phòng không bảo vệ thủ đô Hà Nội cũng gặp khó khăn. Nhiều trận địa bị trúng bom. Cơ số đạn tiêu thụ quá mức. Trận địa pháo 10 mm của dân quân tự vệ Đống Đa bắn hết đạn, nhiều tiểu đoàn tên lửa đạn dự trữ còn ít.  
Ngày 20 và 21 - 12 - 1972
Đêm 20 rạng ngày 21 tháng 12 là ngày B-52 phải chịu tổn thất cao nhất trong toàn chiến dịch. Lưới lửa phòng không được tổ chức và điều khiển rất khôn ngoan. Đôi khi bộ đội tên lửa không tấn công biên đội đầu tiên trên vùng trời mục tiêu mà dùng nó để xác định đường bay và các điểm lượn vòng, tiếp đó các biên đội sau phải chịu hỏa lực mạnh ở gần các điểm thả bom, nơi mà họ phải bay ổn định và trên đường rút khỏi mục tiêu.
Trong một tình huống có tới cả 3 tiểu đoàn tên lửa cùng phóng đạn vào một chiếc B-52 vừa mở khoang bom khiến nó nổ tung. Chớp lửa từ vụ nổ của 30 tấn bom mạnh đến nỗi một máy bay trinh sát của Mỹ hoạt động tuần tiễu trên Vịnh Bắc bộ vẫn còn nhìn thấy. Chỉ 2 trong số 6 thành viên kíp lái trên chiếc máy bay này sống sót. Tại hầm Sở chỉ huy sư đoàn 361, nữ phát thanh viên liên tục thông báo tình hình chiến sự cho biết hết chiếc B-52 này tới chiếc khác B-52 bị bắn rơi. Tư lệnh Quân chủng phòng không-không quân Lê Văn Tri điện xuống Sư đoàn 361 thông báo:
"Đội hình tấn công của đối phương đã rối loạn. Chúng đang réo gọi nhau một cách hoảng loạn và kêu gào lực lượng tìm cứu phi công..."
Vào nửa đêm hôm đó, Bộ tư lệnh không quân chiến lược Mỹ đã hủy lệnh cho B-52 ném bom đợt 2 xuống các mục tiêu ở Hà Nội mà chuyển sang mục tiêu khác ở tít trên phía bắc. Các kíp tên lửa phòng không Việt Nam đã làm được cái điều mà người Nhật Bản, Đức, Bắc Triều Tiên, Trung Quốc trước đó hay Nam Tư, Iraq, Afghanistan, Lybia, Syria sau này không làm được, đó là lần đầu tiên và duy nhất trong lịch sử các chiến dịch tập kích đường không của Mỹ, đội hình máy bay ném bom đang trên đường tới tấn công mục tiêu đã phải thúc thủ quay về vì vấp phải hệ thống phòng không của đối phương.
Dù đã cho hủy lệnh tấn công đợt hai nhưng không quân Mỹ vẫn cố tung đợt tấn công thứ 3 tới đánh phá Hà Nội vào 4 giờ sáng ngày hôm sau, lúc mà lực lượng tên lửa phòng không Việt Nam đã được tiếp đạn đầy đủ, thêm 3 chiếc B-52 bị hạ. Tổng cộng trong đêm đó, 4 máy bay B-52G và 2 máy bay B-52B bị bắn rơi, 1 máy bay B-52D bị bắn hỏng không thể sửa chữa.
Sáng ngày 21 tháng 12, 180 lần chiếc máy bay chiến thuật của không quân và hải quân Mỹ đánh phá các mục tiêu trọng yếu: Ga Hàng Cỏ, Sở công an Hà Nội, nhà máy điện Yên Phụ, Bộ Giao thông, cầu Phủ Lý và 6 đợt đánh vào khu vực thị xã Thanh Hóa.
21 giờ 37 phút đêm và rạng sáng ngày 22, Mỹ huy động 24 lần chiếc máy bay B-52 và 36 lần chiếc máy bay chiến thuật hộ tống vào đánh sân bay và bệnh viện Bạch Mai, Giáp Bát, Văn Điển... Ngoài ra, 30 lần chiếc F-4, F-105 vào đánh phá các khu vực Bắc Giang, ga Kép, sân bay Yên Bái, cảng Hải Phòng, Cát Bi và An Lão (Kiến An).
Phát huy khí thế chiến thắng của 3 ngày đêm trước, quân và dân miền Bắc đã bắn rơi 11 máy bay, trong đó bắn rơi tại chỗ 3 B-52, 2 F-4, 2 A-7, 1 F-111, 1 A-6, 1 RA-50 và 1 F-105.
Ngày 22 - 12 -1972 - Bệnh viện Bạch Mai bị ném bom
"21-12-1972. Tin chiến thắng dội về đây như những đợt sóng thần, xua tan những lo lắng về B-52. Bọn gieo gió đã gặt bão. Tên lửa của thủ đô đã gây sức ép lại bọn cuồng chiến. Đêm qua Hà Nội và các tỉnh thành khác đã hạ 7 B-52 và 9 chiếc máy bay phản lực khác. Đám cháy của những đợt bom B-52 xuống làng xóm quê hương đã nung nấu căm thù trong lòng mình.  
Sớm nay khi mình còn đang ngủ, bọn bạn đã reo hò: "B-52 cháy rồi! Cháy to quá!". Mình chạy ra, không kịp xỏ dép, thấy một khối lửa khổng lồ đang từ trên mây chúi xuống.
Vậy là quanh sân bay mình đã có 3 chiếc B-52 tìm thấy mồ chôn. Một chiếc ở gần Phủ Lỗ, một chiếc đằng sau Núi Đôi, một chiếc ở Phúc Yên. Trong lịch sử chiến tranh, chưa một trận đánh nào mà lực lượng phòng không một nước lại bắn rơi nhiều máy bay chiến lược đến thế.
Bọn bạn đánh đêm xuất kích liên tục. Chúng đều thấy B-52 cả song không bắn được vì chỉ thấy bằng mắt khi chúng bật đèn. Tiếp cận lại thì bọn B-52 sẽ tắt đèn. Rạng đã đuổi lũ B-52 phải vứt bom ở gần Phú Thọ. Thiều đã đuổi một tốp chạy ra khỏi nhiễu. Thế là tên lửa mặt đất bắn lên thoải mái!
Chưa bao giờ Hà Nội, miền Bắc phải chịu một thử thách lớn lao, quyết liệt như lúc này. Cũng chưa bao giờ Hà Nội lại viết được những trang sử chói lọi chiến công và lòng dũng cảm như những ngày qua. Một bài hát cứ vang lên trong mình: bài "Người Hà Nội" của Nguyễn Đình Thi. Tự hào thật!"
-Nhật ký Nguyễn Đức Soát-
2 giờ 38 phút sáng 22-12, bộ đội radar đã phát hiện chính xác các tốp B-52 và máy bay chiến thuật Mỹ ở hướng Tây Nam. Lần này Mỹ sử dụng 24 chiếc B-52 và 36 máy bay chiến thuật vào đánh phá sân bay, bệnh viện Bạch Mai, ga Giáp Bát, Gia Lâm, Văn Điển,... và các trận địa tên lửa, 18 lần chiếc F-111 hoạt động xen kẽ ở độ cao thấp nhằm bất ngờ đánh phá vào các mục tiêu đã trinh sát.
"Đêm 22-12 là ca trực của tôi. Từ 20-12, bom đánh ký túc xá trường đại học Y Hà Nội. Tôi vừa là bác sĩ ngoại Bạch Mai, vừa là giảng viên đại học Y nên chúng tôi đã dọn hết về ở bên bệnh viện. Khoa ngoại, trừ một bộ phận đã sơ tán, còn lại giám đốc yêu cầu trực chiến 24/24 giờ trong ngày. Quy định của trực cấp cứu là tất cả những ai trực phải ở trên, không được xuống hầm - trừ lúc đánh bom - để sẵn sàng cấp cứu bệnh nhân. Chiến sĩ ta bị thương nhiều, đồng bào ngoài An Dương trúng bom cũng được đưa vào Bạch Mai rất đông.
Đêm ấy, khoảng 4 giờ sáng thì B-52 vào, tiếng gầm rát quá khiến chúng tôi phải xuống hầm. Khoảng 15 phút sau thì thấy đất rung chuyển. Báo yên, chúng tôi chui lên khỏi hầm: tất cả đã tan hoang. Khoa ngoại chỗ tôi vừa trực cũng trúng bom, chậm một chút thì tất cả chúng tôi đã tan nát. Anh Đại (GS Đỗ Doãn Đại - giám đốc Bệnh viện Bạch Mai) gọi tôi sang bên khoa da liễu. Bên ấy sập hầm, nhiều bệnh nhân và bác sĩ mình đang kẹt dưới đấy.
Hệ thống hầm Bạch Mai do Pháp làm từ xưa, vững chãi lắm, chúng tôi vẫn có thể mổ dưới hầm, đi lại trong hầm không phải cúi đầu, bê tông rất dày, nay nếu nó sập thì mang anh em dưới hầm ra thật không đơn giản.
Đội chống sập của Bạch Mai - do anh Đại thành lập từ hồi đầu chiến tranh phá hoại - đã kê kích những tấm bê tông lên, chỗ nào đào được thì đào, chỗ nào kẹt thì phải đi vòng, rất cẩn trọng, kẻo còn bom chưa nổ hoặc tạo rung chấn thì cực kỳ nguy hiểm. Anh Đại bảo có đến 15-16 bệnh nhân còn trong đó với một chị bác sĩ trẻ và một cô hộ lý, Luân và tôi bò vào để tìm cách đưa anh em ra. Chúng tôi bò vào đến nơi, còn thấy cô hộ lý kêu rất thương tâm: "Anh Kinh, anh Luân ơi cứu em!". Cô kẹt sau 2-3 người đã chết nên đưa cô ra ngay là không thể vì đường hầm sập, lôi người ra rất khó. Lỗ khoan do đội chống sập khoan không đủ rộng lôi người ra, ánh sáng không có, chúng tôi xoay trở rất khó khăn.
Tôi với anh Luân phải bò ngược ra, xin ý kiến lãnh đạo bệnh viện: "Chúng tôi xin phép được tháo khớp người đã chết để đưa qua chỗ kẹt". Anh Đại đồng ý. Chúng tôi ra giữa trời, lúc đấy đã khoảng 4 giờ chiều, mưa lâm thâm, chúng tôi thắp hương rồi ngửa mặt lên trời chắp tay khấn vái xin trời đất phù hộ để đưa thi thể đồng bào đồng chí ra yên lành. Sau đó bò vào mày mò trong bóng tối, dùng dao mổ tháo khớp các nạn nhân rồi chúng tôi buộc dây vào người nằm đầu tiên, kéo ra, cứ thế mười mấy người chết được lần lượt đưa ra, cùng với một cô hộ lý đã lả đi vì kiệt sức và sợ hãi. Khi tất cả các thi thể được đưa ra hết đã là hơn 7 giờ tối, Hà Nội lại chuẩn bị một đêm chờ đón những đợt oanh kích của B-52. Còn bệnh viện của tôi thì đã tan hoang, đồng đội tôi đã hi sinh, bệnh nhân đã mất. Một ngày đêm dài nhất trong đời tôi..."
-Bác Sỹ Lê Bá Kinh-
Nỗi đau từ bầu trời
"Ngày 22-12-1972
Gần 10 giờ 30 phút mới rút kinh nghiệm chiến đấu ở sở chỉ huy về. Không sao chợp mắt được. Trận đánh lúc 1 giờ 35 phút chiều nay như ngàn vạn mũi kim đâm vào lòng. Cảm giác đầu tiên: mình đã không hoàn thành nhiệm vụ. Không đánh được địch lại để nó bắn rơi số 2 là Quý. Và suýt nữa nó bắn rơi cả mình.
Đã trên hai tháng nay, không quân chưa đánh một trận nào với bọn F-4. Mình đã nghĩ thế nào chúng cũng thay đổi thủ đoạn. Thay đổi thế nào mình chưa nghĩ hết. Mấy hôm nay bọn Mỹ đánh vào Hà Nội, đứa nào cũng muốn trả thù. Mình muốn đánh trước một trận xem tình hình ra sao. Đường băng còn đầy hố bom. Chỉ có đường lăn rộng khoảng 16 m là đã chữa xong. Trời đầy mây. Gió mùa về, lạnh.
Chúng mình đi đội hình cao, đến gần 10 km. Bọn Mỹ đi đến hơn 8 km. Mình thấy trước. Lúc đầu 2 chiếc. Chỉ huy bảo 8 chiếc. Mình đã định lao vào đánh 2 chiếc ấy thì thấy sau nó 4 chiếc nữa...
Không đánh được tốp đầu và tốp giữa rồi, mình quyết định đánh tốp sau cùng. Đúng là một cuộc diễu binh qua cả đội hình địch. Mình đi xuôi, nó đi ngược. Yếu tố bí mật không còn nữa. Khi bám phía sau 2 chiếc F-4 độ 3 km, thấy hai chiếc khác phóng tên lửa đối đầu. Mình nghĩ ngay: nó phóng vào thằng Quý nên hô: "nó phóng tên lửa". Không thấy Quý nói gì suốt cả trận đánh nên rất sốt ruột. 2 chiếc F-4 mình bám theo cũng vòng rất mạnh. Biết là không đánh được, mình quyết định thoát ly. Lại thấy hai thằng đến phóng tiếp vào mình 4 phát tên lửa nữa. Mình kéo gập xuống dưới thấp, bay vào trong mây. Chỉ huy sĩ quan nhắc mãi là có núi. Mình biết đó là Tam Đảo. Nhưng không còn cách nào khác để che mắt địch. Mình bay trong mây ở H.1300 về gần Kép thì chui xuống dưới mây bay về sân bay.
Chỉ huy sở gọi Quý mãi không thấy. Mình lo nó bị rơi ngay từ hai phát tên lửa đầu. Tối nay chính ủy bảo Quý đã nhảy dù ở Sơn Dương. Sức khỏe không tốt. Không biết nó ra sao?
Giá mình không định thoát ly ngay thì hay bao nhiêu!
Ngày xưa khi mình là trung đội trưởng, đánh không thắng, về thấy tội lỗi rất nặng. Bây giờ khi bọn Mỹ đang liều lĩnh gây sức ép tối đa với ta, không quân chưa làm ăn gì cả. Mình lại là đại đội trưởng một đại đội vừa qua được ca ngợi là lá cờ đầu của không quân.
Như thế, khuyết điểm lớn biết chừng nào. Mình không sợ khuyết điểm. Chỉ ân hận là đã không hoàn thành nhiệm vụ. Với người lính, đó là nỗi lòng day dứt nhất."
-Nhật ký Nguyễn Đức Soát-
Ngày 23 đến 25 - 12 - 1972
Ban ngày, 54 lần chiếc máy bay chiến thuật của không quân Mỹ đánh phá các khu vực ngoại thành Hà Nội: Mai Dịch, Trạm Trôi, Hoài Đức. Ban đêm 33 chiếc B-52 đánh Đồng Mỏ (Lạng Sơn) và khu vực Bắc Giang, 30 chiếc máy bay F-4 và F-105, 11 máy bay F-111 đánh vào Yên Viên, Giáp Bát, Đa Phúc và các sân bay Nội Bài, Yên Bái. Hướng biển có 7 máy bay chiến thuật của Hải quân Mỹ vào đánh Uông Bí, Phà Rừng, Sở Dầu và sân bay Kiến An.
Quân chủng phòng không-không quân bắn hạ 4 máy bay trong đó gồm 2 B-52, 1 F-4 và 1 A-7.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội tuyên dương công trạng quân dân miền Bắc và cán bộ, chiến sĩ thuộc Quân chủng Phòng không-Không quân. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đặc biệt tuyên dương công trạng của quân và dân Hà Nội chiến đấu oanh liệt, giành thắng lợi to lớn, bắn rơi tại chỗ chiếc B-52 là chiếc máy bay Mỹ thứ 4.100 bị bắn rơi trên bầu trời miền Bắc.
"23-12-1972
Quý về lúc 4 giờ 30 phút chiều nay. Mình chạy từ trên đồi xuống chân đồi đón nó. Chúng mình ôm lấy nhau, thân thiết, chân thật. Mình lo trong người mình từ tối qua khi nghe anh Nhị bảo có điện về: Quý bị mệt!
Điều quan trọng hơn cả là con người. Quý chỉ bị trật khớp tay phải. Mặt bị vài vết xước nhẹ. Nó bảo khi thấy mình bổ vào đánh mấy thằng F-4 sau cùng, nó vẫn chưa thấy thằng địch nào. Đến khi thấy một chiếc F-4 phía sau thì: rầm... Người bị hất tung lên. Thế là nó nhảy dù.
Trận đầu gặp địch là thế đấy. Đây là bài học lớn cho mình về cách chuẩn bị đánh nhau cho bộ phận, cho anh em lái mới."
-Nhật ký Nguyễn Đức Soát-
Đêm 23 không có chiếc B-52 nào rơi. Đêm 24 thời tiết xấu, sương mù dày đặc, MiG-21 của Việt Nam cũng không xuất kích.
Công binh và dân công đã được điều đến cấp tốc phá bom, lấp đường băng trong đêm. Và đêm 24 hầu như không còn sân bay nào có thể cất cánh được. Nhưng trước đó ngày 23 tháng 12, một biên đội của Trung đoàn không quân 927 xuất kích và phi công Nguyễn Văn Nghĩa đã bắn rơi một chiếc F-4.
Những đoàn người và xe thồ, xe đạp vẫn tiếp tục rời khỏi Hà Nội. Thành phố như một bãi chiến trường, tan hoang. Sợ thì rất sợ, nhưng đi cũng phải có tổ chức. Nhà trong khu tập thể quân đội ở làng hoa Ngọc Hà, các gia đình được bố trí đi sơ tán lần lượt vì còn liên quan đến xe cộ, rồi địa phương nơi sơ tán, chỗ học của trẻ em,...
Gần Giáng sinh, những người Công giáo Hà Nội cũng có một niềm tin mơ hồ là người Mỹ cũng theo đạo, không ném bom đêm Giáng sinh nên trong ngày 23 và 24 lại có một số trai thanh gái lịch lục tục đạp xe về Hà Nội vì nhớ phố phường, nhớ không khí nhà thờ đêm Noel.
Đêm Noel trong khu văn công Mai Dịch không có đèn điện, đám cưới thời chiến chỉ có bánh kẹo trà thuốc, khách mời toàn nghệ sỹ. Mọi người vẫn hát. Nhưng 5 đêm trước B-52 đều đánh đủ hai-ba lần nên tối 23 và 24 mọi người vẫn thấp thỏm. Đám cưới của nhạc sỹ Vũ Thảo cũng phải kết thúc sớm để mọi người trở về nơi sơ tán. Một năm rưỡi sau, con trai đầu lòng của ông bà ra đời: đó chính là bình luận viên bóng đá Vũ Quang Huy.
"Chúng tôi tụ tập ở sảnh khách sạn Metropole cùng đón Giáng sinh. Người Pháp, người Ba Lan, người Ấn Độ, người Cuba và người Việt Nam. Cây thông nhỏ khách sạn dành tặng mang đến sự ngọt ngào cho bài thánh ca quen thuộc. Nhưng sự linh thiêng của những lời nguyện cầu vỡ tan theo cơn bão bom khốc liệt. Trở lại căn hầm tránh bom nơi có hai người phụ nữ ở đó. Với tài năng tuyệt vời, tinh thần không hề sợ hãi và rất đỗi dịu dàng. Đưa tất cả chúng tôi về với bình yên bằng tiếng hát vút cao cùng niềm hân hoan dâng trào. Rực sáng hơn hết thảy những quả bom ném xuống Hà Nội đêm hôm đó. Ta hát lên với sự quả cảm. Nhưng con trai ơi, giờ này con ở đâu? Ôi những con người của căn hầm ấy, những món quà vô giá họ dành tặng tôi. Họ cười với tôi và tôi âm thầm chia sẻ sự đau đớn tột cùng. Và tôi chỉ có thể cúi đầu với sự khiêm nhường tuyệt đối. Để xin được khoan dung, khoan dung để vượt qua quá khứ đau thương..."
-Nguyễn Thị Minh Thái-
Đó là lời một ca khúc đáng nhớ của một nữ ca sĩ nổi tiếng. Ca khúc được cô ghi âm dưới hầm tránh bom, sau khi trở về từ phố phường Khâm Thiên tan nát:
"Chúng tôi đến cái nơi trông giống như quang cảnh một bộ phim màn ảnh rộng, quay cảnh trên Mặt trăng. Những người đàn ông đang gào lên, người chết lên đến con số hàng trăm... Đây là một đôi giày... kia là chiếc áo len trẻ con cháy dở, một vài mảnh đĩa vỡ... một quyển sách mở trang, những trang giấy bết vào nhau... Ngay cạnh đó, một phụ nữ tập tễnh bước tới bước lui, miệng không ngớt gọi: Con ơi, con ở đâu?"
Ca sĩ đó chính là Joan Baez, đến Hà Nội từ nước Mỹ xa xôi.

"Năm nào cũng thế, kể từ 1972, tôi lại lấy từ hồi ức riêng những tháng ngày B-52 Mỹ ném bom Hà Nội, cách đây đã tròn 40 năm, những kỷ niệm không thể quên. Những kỷ niệm chiến tranh của tuổi 20. Tốt nghiệp khoa ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội, chưa được nhận công tác, tôi cùng vài bạn bè tân cử nhân văn chương, vốn thiết tha lãng mạn, khao khát thành nhà báo chiến trường, đã quyết "cố thủ" tại Hà Nội hòng tận mắt chứng kiến cảnh B-52 bị bắn rơi trên bầu trời Hà Nội.  
Tôi cũng không ngờ những cảnh tượng bi hùng của Hà Nội B-52 ngày ấy khi trở về ký ức tôi vẫn rực sáng một nỗi nhớ về tiếng hát của nữ ca sĩ Mỹ Joan Baez, người đã đến Hà Nội hát giữa những ngày B-52 khốc liệt ấy với tuyên bố giản dị:
"Tôi là người Mỹ đến Hà Nội, vì muốn đứng về phía Hà Nội bằng tiếng hát."
Sau này, kể từ khi khách sạn Metropole làm "sống lại" căn hầm dã chiến bỏ hoang từ năm 1975 như một bảo tàng hầm, tôi mới biết khi sang hát tại Hà Nội tháng 12 năm 1972, Joan Baez đã ở khách sạn này. Cô đón Giáng sinh ở đây và đã tránh bom B-52 dưới chính tầng hầm này. Bây giờ tầng hầm được bảo tồn khá nguyên vẹn, trong đó gìn giữ kỷ vật, kỷ niệm về những người Mỹ phản đối chiến tranh tại Việt Nam. Họ đã đến ở với Hà Nội ngay những ngày B-52 ấy.
Hai gương mặt Mỹ nổi bật nhất đã ẩn náu bom Mỹ ở căn hầm này lại là hai nữ nghệ sĩ: Joan Baez và Jane Fonda. Và tôi nhớ một chiều trong chuỗi ngày hội thảo "Chiến tranh và hòa bình" ấy, với đại biểu hơn 20 quốc gia tham dự, từ ngày 24 đến 31 tháng 10 năm 2010 ở Ohio (Mỹ). Trong phòng hội thảo quốc tế của Trường Case Western Reserve, khi nghe chủ tọa đọc tên mình, tôi xúc động đứng bật dậy khỏi ghế ngồi. Tôi có hai phút "nói thật về chiến tranh" theo yêu cầu hội thảo để kể về ký ức chiến tranh Mỹ tại Việt Nam. Rất nhanh, tôi dùng hai phút ấy nói về sự kiện ca sĩ Mỹ Joan Baez đến hát tại Hà Nội của tôi, ngay trong những ngày B-52 tháng 12 năm 1972.
Tôi nhớ chuỗi 12 ngày đêm ấy rơi đúng vào mùa Hà Nội rét ngọt thấu xương. Trời Hà Nội bị xé nát bởi tiếng gầm rú máy bay B-52 của không quân Mỹ, với những đợt oanh kích dữ dội và những đợt bắn trả dữ dội của phòng không-không quân Việt Nam. Cuộc sống thường nhật của người dân Hà Nội cũng bị xé nát bởi đạn bom Mỹ. Đứng về phía Hà Nội bằng tiếng hát! Gần ngày Giáng sinh thì phải, một tối muộn rét căm căm, bố tôi, một ca sĩ Đoàn ca nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam, chở tôi bằng chiếc xe đạp Liên Xô cũ lên trụ sở Đài 58 Quán Sứ để:
"Cho con nghe một nữ danh ca Mỹ phản chiến vừa từ Mỹ bay sang Hà Nội, hát cho người của đài nghe. Sau đó sẽ sang hát mừng Giáng sinh và năm mới cho các tù binh phi công Mỹ bị bắn rơi tại Hà Nội, đang bị giam giữ ở Hỏa Lò."
Đêm ấy, bất ngờ Joan Baez xuất hiện lộng lẫy trên sân khấu. Tiếng vỗ tay vang dội hội trường. Joan Baez quá đẹp và rất thu hút. Một cái đẹp thật trong trẻo, đằm thắm và quyến rũ. Dáng thanh mảnh trong váy áo thướt tha sẫm màu, Joan cúi đầu chào, giọng Mỹ trầm ấm, chúc mừng Hà Nội vào mùa Giáng sinh và năm mới 1972-1973. Rồi Joan cúi thấp mình nói lời xin lỗi nghẹn ngào, sẻ chia tận đáy lòng về những cuộc không kích B-52 của Mỹ đang đổ xuống Hà Nội khiến nhiều người chết, phố xá hoang tàn, ngói tan gạch nát. Joan thành thực bày tỏ sự phản đối cuộc chiến phi nghĩa của Mỹ ở Việt Nam và kết thúc diễn từ:
"Tôi xin được đứng về phía Hà Nội bằng tiếng hát."
Và Joan bắt đầu dọn mình để vào bài hát, khoác lên vai cây đàn guitar gỗ, tự mình gảy đàn đệm và cất tiếng hát, đúng đẳng cấp nữ hoàng nhạc đồng quê của Mỹ. Một giọng nữ cao, ngân rung trong vắt và run rẩy, muốn nát lòng người nghe. Và điều lạ nhất là tiếng hát của Joan vừa hừng hực lửa phản chiến, vừa chất chứa dưới đáy thẳm sự nồng nàn ấm áp của những giai điệu trữ tình đồng quê, đã đi thẳng vào lòng người Hà Nội đêm ấy và ở lại mãi với trái tim tuổi 20 của tôi."
-Nguyễn Thị Minh Thái-
Ngày 26 -12 -1972 - Tiếng khóc Khâm Thiên và giọt nước mắt ở New York
Trong guồng quay của kế hoạch đưa Hà Nội về thời kỳ đồ đá, ngoài khu quân sự, Mỹ còn cho B-52 trải thảm xuống các bệnh viện, khu dân cư. Khâm Thiên ngày 26 tháng 12 năm 1972 chìm trong biển lửa và sau một đêm trở thành đống đổ nát.
22 giờ 45 phút đêm ngày 26 tháng 12, tốp máy bay B-52 của Mỹ từ đảo Guam, từ sân bay Utapao, như những con quái vật lừ đừ bay vào cắt bom rải thảm xuống khu phố Khâm Thiên.
Cả khu phố nổi tiếng sầm uất và đông dân, những con ngõ mang những cái tên thân thương, những ngõ Hòa Bình, ngõ Đại Đồng, ngõ Đoàn Kết... đã gần như bị san phẳng. Các khối phố 42, 43, 45, 47 chỉ còn là đống gạch vụn. Nhà dân, cửa hàng, nhà trẻ, trạm y tế,... bị đổ nát hoàn toàn. 534 ngôi nhà đổ sập, 1.200 căn nhà khác bị phá hỏng, 577 người chết và bị thương. Tiệm đàn Nhạc Sơn trong ngõ Sân Quần bị san phẳng. Người trong nhà đi sơ tán hết chỉ còn những cây đàn guitar thủng nát nằm lăn lóc trên đống gạch đổ...
Ngày hôm ấy, Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội - bác sĩ Trần Duy Hưng có mặt nơi đây tham gia đào bới tìm người bị bom vùi dưới đống đổ nát. Sáng hôm sau, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam lên tiếng cực lực phản đối không lực Mỹ đánh phá Hà Nội, trung tâm đầu não của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì Đài tiếng nói Hoa Kỳ phát đi lời biện minh của Bộ Ngoại giao Mỹ rằng Mỹ chỉ đánh vào khu vực thuộc tỉnh... Hà Đông.
Ở số 1 phố Khâm Thiên, nơi đóng Tổng Công ty Xăng dầu, giám đốc Nguyễn Văn Đạt đã chết tại bàn làm việc khi đang chỉ huy điều phối xăng dầu cho mặt trận. Ngày nay, chỗ sân công ty, cạnh bậc tam cấp dẫn lên trụ sở chính có tấm biển đá khắc ghi sự kiện bi hùng cuối tháng 12 năm 1972.
Sau trận bom đã thấy Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến hiện trường, bà con phố Khâm Thiên thấy ông biểu lộ vẻ xúc động trước nỗi đau quá lớn.
"Sáng ngày 27 tháng 12 năm 1972, từ trên tuyến đường chiến lược Trường Sơn, chúng tôi lặng người khi nghe Đài Tiếng nói Việt Nam phát đi bản tin đau đớn: Giặc Mỹ dùng B-52 ném bom vào Hà Nội. Bản tin nhói lòng người ra trận, thổi bùng thêm ngọn lửa căm thù và ý chí quyết tâm đánh thắng hoàn toàn quân xâm lược... Cả nước hướng về Hà Nội-trái tim Việt Nam để dõi theo, cùng đau đớn hướng về Hà Nội với tất cả tình cảm thiêng liêng."
Đêm đó, nhà văn Tô Nhuận Vỹ từ Huế ra được điều động tăng cường cho báo Hà Nội mới, trong bài "Thủ đô đêm nay không ngủ" với đề tựa: "Tô Nhuận Vỹ từ Hà Nội gửi Nguyễn Khoa Điềm ở Huế" đã viết:
"Ôi, cha mẹ tôi, anh em tôi, ai nằm đó bất động suốt vỉa hè dài ngổn ngang? Những sọt rau cải, su hào bầm nát biến thành màu đất trước cửa hàng rau quả số 15. Mấy trăm chăn bông sắp về những gia đình lao động ngày rét buốt đã toe tướp, chôn vùi. Hợp tác xã may đo áo quần, ông lang Bảo bắt mạch kê đơn, cây đàn guitar Espanhon có tội gì?"
Ông Nguyễn Văn Cầu (ngõ Sân Quần, Khâm Thiên) nhớ lại, được tin báo địch có thể đánh Hà Nội nên trước khi đến nhà máy in Hà Nội Mới để làm việc, ông dặn vợ con nhớ xuống hầm. 22 giờ 45 phút, còi báo động vang lên, ông được lệnh lên nhà số 75 Hàng Bồ, nơi có hai phân xưởng in báo.
Đến nơi, ông Cầu thấy súng bắn bốn phía sáng lòa. Dứt đợt bom rơi, đài báo an, ông xin phép về nhà xem tình hình.
"Đến đầu phố, lòng tôi rối bời khi thấy nhà cửa đổ nát. Chạy vội vào ngõ nhà mình, tôi thắt ruột khi mọi thứ tiêu điều. Căn hầm tập thể bị địch ném bom, hàng chục người chết không toàn thây."
Trong số 41 người chết khi đang trú ẩn ở căn hầm ấy, có vợ và con trai ông Cầu. Nhà chị gái ông mất hai người con, em trai ông là dân quân tự vệ cũng qua đời. Quá đau đớn vì một lúc mất đi 5 người thân, ông Cầu lao vào đống đổ nát bới tìm thi thể họ.
"Vợ tôi chỉ còn nửa người trên, con trai còn một cái chân, tôi nhận ra vì nó có cái sẹo bỏng ngày xưa, còn em trai thì không tìm thấy. Tôi chỉ biết nhặt nhạnh phần còn lại của người thân cho vào túi nylon."
Ngay sau đó thành phố cho người đem quan tài đến phố Khâm Thiên, hôm sau đưa người bị nạn xuống Văn Điển. Thi thể em trai Nguyễn Văn Vũ của ông Cầu đúng hai tháng sau mới được tìm thấy, đầu vẫn đội mũ cối gắn sao tự vệ.
"Ngay sau hôm nghe Joan hát, tôi đã biết chắc rằng còn một nước Mỹ khác, với những người như Joan. Cũng ngay sau đêm đó, phố Khâm Thiên, bệnh viện Bạch Mai, ngôi nhà tôi trong khu tập thể Đài Tiếng nói Việt Nam, phố Đại La - Ngã Tư Vọng, liên tiếp bị giội bom B-52. Hà Nội ngập trời khói lửa đạn bom, lệnh sơ tán ban bố khẩn cấp.
Bố tôi buộc tôi phải sơ tán khỏi Hà Nội, song các ngả đường đều bị bom. Tôi khoác balô, mặc bộ đồ nhuộm màu lá cây, lần theo lưng bố, đi bộ vất vả leo trèo qua phố Khâm Thiên đổ nát tan hoang, ra đầu ô Cầu Dền, lên xe của Đài Tiếng nói Việt Nam đưa đi sơ tán. Hình ảnh Khâm Thiên tang thương ấy đeo đẳng suốt dọc đường xe đưa tôi lên ngôi làng Rổng Vòng, tỉnh Hòa Bình sơ tán.
Váng vất trong tôi còn nguyên tiếng guitar gỗ chập chờn giọng hát say đắm tình yêu Hà Nội của Joan Baez và tiếng Đài Tiếng nói Việt Nam phát sóng tác phẩm ký sự hào hùng của Nguyễn Tuân: "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi".
Sau này, cũng nhờ việc bảo tồn dấu tích của Joan bằng hình ảnh trong căn hầm khách sạn Metropole mà tôi được biết ngay sau hôm phố Khâm Thiên bị B-52 ném bom hủy diệt, Joan đã đến hiện trường tang thương ấy cùng một phóng viên ảnh người Mỹ. Và Joan đích thân ghi âm những tiếng khóc than thảm khốc của mẹ cha, ông bà đi tìm con, tìm cháu... dưới đống hoang tàn đổ nát.
Joan quay về khách sạn, xuống hầm tránh bom và tự ghi âm mình hát một ca khúc đau đớn: "Con ơi, con ở đâu?"
Mang về Mỹ cả một tấm lòng bi thương vì B-52 Hà Nội ấy, ngay sau đó chưa đầy một năm, Joan ra một đĩa đơn. Tôi đã được nghe đĩa nhạc ấy chuyển thành đĩa CD ở Albany, tiểu bang New York trong nhà vợ chồng bạn tôi là Ed và Kate, sau khi họ xúc động nghe "2 phút nói thật" của tôi kể về kỷ niệm nghe Joan Baez hát ở khách sạn Metropole Hà Nội.
Thắp một nén hương trầm lên bàn thờ cha mẹ nội ngoại hai bên (Ed học cách thờ phụng tổ tiên từ người Việt) và nhấn nút, thật bất ngờ, cả một-trời-âm-thanh-đặc-sệt-B-52-Hà-Nội trở về: tiếng máy bay gầm rú, tiếng bom rơi đạn nổ ầm ầm, tiếng loa phát thanh kêu gọi mau xuống hầm, tiếng thất thanh kêu cứu, tiếng gào gọi tên ai đó, tiếng ngâm thơ trầm trầm, tiếng một người mẹ sợ hãi đau đớn, tuyệt vọng: "Con tôi đâu?" Và giọng Joan cũng vút cao đau nhói tim người, khi hát trên chính cái nền âm thanh bi tráng hỗn loạn chết chóc ấy, bài hát: "Con ơi, con ở đâu?". Cả ba chúng tôi, tôi và vợ chồng người bạn Mỹ, đều cúi đầu nghe hát, lệ rưng rưng trên mắt.
Chúng tôi ngồi như thế rất lâu trong ngôi nhà ngập tràn tiếng hát của Joan Baez về Hà Nội một thời đạn bom, một thời hào hùng... Nước mắt lưng tròng, Kate ôm lấy tôi, xin lỗi mãi về những trận bom B-52 đã "ném xuống Hà Nội của bạn"."
-Nguyễn Thị Minh Thái-
Ngày 27 - 12 - 1972 - Đêm của Phạm Tuân
"Sáng 28-12-1972
Tin thằng Tuân đêm qua bắn rơi một chiếc B-52 như một làn sóng vui sà đến đâu làm mọi người phấn chấn đến đấy. Mấy cô chị nuôi cũng bảo: có cả công của chúng em.
Các đồng chí cán bộ bảo: bước đầu ta đã trả được món nợ với Trung ương Đảng. Nhớ hôm Thủ tướng Phạm Văn Đồng đến thăm quân chủng, Thủ tướng bảo: "tôi đến, thay mặt Bộ chính trị, khen ngợi và cảm ơn các đồng chí. Các đồng chí đánh tốt lắm". Khi biết không quân đánh có khó khăn, Thủ tướng bảo: "Mong các đồng chí bắn rơi dù chỉ một chiếc B-52 cũng tốt. Hơn lúc nào hết, bây giờ ta rất cần chiến thắng".
Từ dạo mình về đây (đã gần 5 năm), năm nào ta cũng lùng B-52 để đánh. Các sân bay Đồng Hới, Vinh, Anh Sơn phải sửa mấy chục lần để máy bay ta cất cánh đi đánh. Nhiều đồng chí hy sinh vì việc này.
Trong chiến tranh, những bất ngờ thường vượt quá trí tưởng tượng của con người. Đến sáng nay, 31 chiếc B-52 đã bỏ mạng. Mà 30 chiếc lại do tên lửa bắn rơi.
Chiếc của Tuân bắn rơi ngay ở gần Phú Thọ. Nó phát hiện bằng mắt vì bọn B-52 phải bật đèn để lũ F-4 bay theo yểm hộ. Radar thông báo cự ly đến mục tiêu. Bọn F-4 nhìn theo luồng lửa của chiếc MiG tăng lực bắn với theo. Nhưng không kịp rồi. Cả khối sắt thép nặng đến 220 tấn ấy đã cháy bùng và cắm xuống miền núi phía tây của Tổ quốc bởi hai quả tên lửa nhiệt P-3C chỉ nặng 160 kg.
Cảm ơn Tuân vô cùng. Mày đã nhấc hộ bọn tao gánh nặng mà lịch sử sẽ mãi mãi treo lên đầu cả lũ lái máy bay tiêm kích."
-Nguyễn Đức Soát-
"Khoảng 4-5 giờ chiều 27, tôi cất cánh lên trực tại sân bay Yên Bái. Trước đó, đêm nào địch cũng đánh bom sân bay Yên Bái nhưng đêm 27 không biết vì sao mà nó không đánh, chỉ thấy thỉnh thoảng F-4 vù qua đầu. Khoảng 21 giờ, tôi được lệnh mở máy xuất kích.
Trên ra lệnh là cơ động tránh F-4 mà đi, sau đó thông báo là B-52 cách 200 cây, 150 cây rồi 100 cây. Máy bay MiG-21 cứ một phút là 40, 50 cây nên cách 200 cây thì chỉ mấy phút là tôi tiếp cận mục tiêu. Đến độ cao khoảng 6 cây, tôi xin phép ném thùng dầu phụ và kéo lên cao.
Đang vòng thì tôi phát hiện thấy một tốp B-52, hai dãy đèn. Tôi nói: "Phát hiện 2 chiếc". Ở dưới nói: "Phía trước 10 cây", tôi nói: "Nghe tốt", và tôi bắt đầu bám vào sau B-52. 3 sở chỉ huy chính ở Hà Nội, Thọ Xuân, Mộc Châu và một đài phụ trợ nữa ở Yên Phong đều thông báo là mục tiêu phía trước. Số hiệu của tôi là 361, thế là cứ thay nhau: "361, mục tiêu đằng trước mấy cây"...
Về sau, anh Trần Hanh phải nói tất cả các sở chỉ huy dừng không liên lạc, để sở chỉ huy quân chủng dẫn dắt. Lúc đó tôi cách địch khoảng 8-9 cây. Lần đầu tiên phi công chúng ta tiếp cận trong điều kiện tốt như vậy nên các anh nhắc: nào là bật tên lửa ở vị trí hai quả, rồi thì mở nút phóng tên lửa quan sát...
Đến cự ly khoảng 4-5 cây, sở chỉ huy lại tiếp tục nhắc, tôi nói: "Các anh cứ yên trí, tôi nhất quyết bắn rơi máy bay". Sau các anh mới thôi, không nói nữa. Sau, tôi thấy hô: "4 cây", anh Hanh lệnh: "361 bắn, thoát ly bên trái".
Tôi trông thấy nó còn xa xa, đèn chưa rõ lắm nên bảo là chờ tí. Khẩu lệnh thứ hai, anh Hanh lại hạ lệnh: "Bắn, thoát ly ngay bên trái". Ông ấy sợ mình ham quá đâm vào nó. Tôi bảo chờ tí. Đến khẩu lệnh thứ ba: "361 bắn, thoát ly ngay".
Thế thì tôi mới kéo máy bay lên, chỉnh điểm ngắm, thấy tín hiệu tên lửa tốt rồi, tôi phóng hai quả tên lửa, đạn bay ra, sáng lòe trước mặt. Lần đầu tiên mình bắn tên lửa ban đêm, thấy một vạch đi trước, quả thứ hai lao vút đi sau, tạo thành một đường sáng rực.
Tôi kéo máy bay và lật ngửa lại thì nhìn thấy nó nổ, điểm nổ rất to trước mặt, nhưng đồng thời lúc bấy giờ cũng là lúc máy bay tôi vượt qua điểm nổ, tốc độ một nghìn tư. Tôi nói: "Cháy rồi".
Đến sáng thì được quân chủng thông báo là đã xác định bắn rơi một B-52 và đồng chí Võ Nguyên Giáp gửi điện khen Không quân nhân dân Việt Nam. Tôi chính thức được công nhận bắn rơi chiếc B-52 trận đêm ngày 27 tháng 12 năm 1972."
-Phạm Tuân-
Chỉ tính riêng ngày và đêm ngày 27 tháng 12, có 13 máy bay Mỹ bị bắn rơi, trong đó có 5 chiếc B-52 (2 chiếc B-52 rơi tại chỗ). Trong 2 chiếc B-52 bị hạ tại chỗ thì một chiếc rơi trên đường Hoàng Hoa Thám và hồ Hữu Tiệp thuộc làng hoa Ngọc Hà. Đây là chiếc B-52 duy nhất bị bắn rơi tại chỗ khi nó chưa kịp cắt bom.  
Ngày 28 - 12 - 1972 - Hy sinh vì vùng trời Việt Nam
Từ Hoàng Tam Hùng...
"Định ra chỉ huy cho bọn ở đại đội bay rút lên. Lân không bay, Dân ứng cử. Sau này phải sắp xếp cẩn thận, kẻo thì hết người đánh nhau. Đêm nào bọn F-111 cũng đánh sân bay mình. Nó bay thấp, qua cửa hầm, nghe rất chói tai... Đường băng bị 3 dải bom B-52 đã cơ bản chữa xong. Tuy thế, chúng mình vẫn cất hạ cánh bằng đường lăn.
Lúc 11 giờ trưa nay, Kiền và Hùng xuất kích lên đánh bọn máy bay của hải quân. Họ cất cánh được 3 phút đã gặp địch. 5 phút sau Hùng báo bắn cháy một chiếc. Sau đó chỉ có Kiền hạ cánh. Chúng đánh ngay ở phía nam Hà Nội - ngay trên quê mình. Do chỉ huy sở phán đoán địch muộn, lại ở giữa đội hình địch nên mỗi đứa quần với một tốp. Kiền không bắn được địch. Thoát ly xuống dưới mây về. Chưa có tin gì về Hùng. Lo rằng nó đã hy sinh. Hôm xếp Kiền-Hùng, mình đã đắn đo mãi. Kiền linh hoạt. Nó chưa bắn rơi máy bay song ai cũng tin ở khả năng phát triển của nó. Hùng bay chắc, thông minh. Trong số 5 người chuyển loại từ MiG-17 lên, mình tin Hùng và Bồng hơn cả.
Hôm xưa, sau khi Quý nhảy dù, chính ủy và đoàn trưởng đã nhắc mình phải nắm chắc trình độ của từng người trong đơn vị. Hùng là người đầu tiên trong lớp 5 người hạ máy bay như thế cũng hay. Nhưng mình không nghĩ thêm được là hai anh chàng có thể cay cú vì cùng xốc nổi và hăng quá. Vừa gặp địch, Hùng đã lao vào ngay mà không kịp nhìn xung quanh. Mỗi tổn thất về vũ khí, nhất là máu xương của đồng chí lúc này, mình đều phải chịu trách nhiệm rất nặng. Phải làm thế nào để mọi người cùng bắn rơi được máy bay Mỹ mà tổn thất ít nhất là vấn đề trọng tâm bắt mình suy nghĩ lúc này. Hãy lăn lưng vào rút kinh nghiệm. Hãy dẫn họ đi đánh mới được.
Hùng ơi! Mình sẽ trả thù cho Hùng!"
-Nhật ký Nguyễn Đức Soát-
Ít ai biết đại đội của Nguyễn Đức Soát, chàng phi công cao lớn xuất thân con nhà nông dân, tập hợp rất nhiều phi công trẻ con nhà "quý tộc". Họ là con cháu của nhiều vị lãnh đạo cấp cao.
Phi công Hoàng Tam Hùng là con trai duy nhất của Bí thư trung ương Đảng, Phó thủ tướng Hoàng Anh. Phi công Lê Thanh Quý là cháu ruột của ủy viên Bộ Chính trị Lê Thanh Nghị, rồi con trai của ông Hoàng Quốc Việt, ông Nguyễn Duy Trinh đều xung phong vào bộ đội, làm phi công chiến đấu.
Lê Thanh Quý suýt chết đêm 22, phải nhảy dù tránh quả tên lửa bắn ra từ bọn F-4 chuyên "săn MiG". Còn Hoàng Tam Hùng, ngày 28 tháng 12 năm 1972, anh đã có một trận đánh mà những người lính bay gọi là "mẫu mực và cảm tử".
"Ai cũng sợ bay chiếc máy bay ấy, chuyên gia Liên Xô cũng sợ, nhưng Hùng vẫn bảo tôi: "em chẳng sợ đâu, anh cứ chuẩn bị tốt cho em bay". Sáng ấy Hùng bay với anh Kiền. Địch đông quá, chỉ huy cho phép giải tán. Kiền thoát ly nhanh theo lệnh, còn Hùng bị cả bầy nó vây. Hùng bắn rụng một chiếc RA-5C, bắn xong lại gặp nguyên bầy F-4, cậu ấy bám đuôi và bắn cháy luôn một chiếc nữa. Tôi ngồi hầm chỉ huy (máy bay của chúng tôi bay thì tôi bao giờ cũng ngồi hầm theo dõi anh em đánh) nghe rõ giọng cậu ấy hô: "Cháy rồi". Nhưng cậu ấy cũng trúng tên lửa của nó. Cậu ấy hy sinh anh dũng quá, mà trẻ măng, thư sinh, ngoan ngoãn. Chúng tôi chẳng bao giờ nghĩ cậu ấy là con ông phó thủ tướng."
-Đại tá Bùi Xuân Cơ-
Đến Vũ Xuân Thiều
"Đấy là một con người trí thức, dáng dấp rất "trai Hà Nội", sống hòa đồng, hiền hậu, thông minh. Một con người sống bằng nội tâm. Tư cách thì vừa như thanh niên thành phố lại như thanh niên huyện."    
Ngày đau đớn nhất chưa hết với đại đội trưởng Nguyễn Đức Soát. Đêm ấy, anh mất tiếp người bạn thân nhất: trung đội trưởng trung đội bay đêm Vũ Xuân Thiều.
Vào trung tuần tháng 12-1972, trong buổi họp rút kinh nghiệm chiến đấu với B-52 Mỹ trên không, phi công Vũ Xuân Thiều đã báo cáo với Trung đoàn trưởng:
"Lần sau khi phát hiện B-52, cho tôi được xuất kích tiêu diệt, bắn B-52 mà không trúng tôi sẽ lao thẳng vào chúng."
Chỉ ít ngày sau, Vũ Xuân Thiều đã thực hiện được mơ ước cao đẹp của mình. Đó là vào đêm ngày 28 tháng 12 năm 1972, đài chỉ huy thông báo máy bay B-52 của Mỹ cất cánh từ sân bay Utapao bay vào bầu trời Hà Nội. Vũ Xuân Thiều nhận lệnh xuất kích từ sân bay Cẩm Thuỷ, Thanh Hoá. Tại Sở chỉ huy mặt đất có các sĩ quan cao cấp của quân chủng như: Đào Đình Luyện, Trần Hanh, Trần Mạnh... cùng có mặt theo dõi trận không chiến của anh.  
Buổi tối hôm ấy đã báo động 2 lần và đều thủ tiêu báo động, không cất cánh. Lần thứ ba lúc 20 giờ, kíp thợ máy nhớ như in câu nói của chàng phi công Vũ Xuân Thiều khi ngồi vào buồng lái:
"Bây giờ quá tam ba bận, mặt đất có cho tôi cất cánh hay không tôi cũng cất cánh, không thể chần chừ được nữa."
Thiều xin cất cánh 3 lần mới được lệnh đồng ý. 30 rồi 40 phút im lặng, hơn một tiếng sau, đồng đội anh nhận tin máy bay B-52 rơi ở Sơn La.   
 "Là thứ bao nhiêu không nhớ, tôi thuộc lòng từng chi tiết vì không thể quên được, và vì tôi đã nhắc lại rất nhiều lần...
Thiều được đưa đến sân bay bí mật ở Cẩm Thủy, Thanh Hóa vì các sân bay của ta đều đã bị đánh bom tan nát. Khi bọn F-4 xuất hiện dày đặc để quét MiG thì chúng tôi cho Thiều cất cánh. Phương án đã vạch ra là bay thấp hơn mục tiêu 150-200 m và chỉ có một khẩu lệnh cực ngắn. Thiều bay một mình lên Sơn La. Dẫn bay là đài Mộc Châu, thuộc trung đoàn 292. Radar của ta đã quen quy luật nhiễu của B-52, bắt rất tuyệt vời. Khi toàn bộ đội hình B-52 xuất hiện trên màn hình mới có lệnh cho Thiều kéo lên. Thiều đã phát hiện thấy B-52. Đội hình địch dày đặc, bay sít vào nhau."
-Thiếu tướng Trần Hanh-
21 giờ 39 phút ngày 28-12-1972.
- "Sao Mai" báo cáo, đã nhìn rõ "Mây đen" và "Mây đen" bắt đầu nhả khói.
-"Hồng Hà" lệnh cho "Sao Mai" tiếp cận mục tiêu và công kích.
- "Sao Mai" báo cáo, đã công kích 2 lần, "mây đen" chỉ bị thương, "Sao Mai" xin công kích tiếp. 
Khẩu lệnh báo cáo vừa dứt thì trên màn hình chỉ huy một vầng sáng rực lên, đường chì đỏ của cô gái tiêu đồ cũng dừng đột ngột.
Cả sở chỉ huy rộ lên giây lát... nhưng rồi mọi người đều hiểu điều gì đã xảy ra và tất cả đều trầm lặng, nhiều đồng chí lau nước mắt. Lúc ấy là 21 giờ 45 phút ngày 28 tháng 12 ngày 1972.
Sáng hôm sau, tỉnh đội Sơn La báo cáo:
"Đêm qua, một máy bay B-52 Mỹ bị bắn cháy rơi xuống cánh đồng xã Tạ Khoa, huyện Yên Châu, Sơn La và một máy bay MiG-21 của ta cũng rơi gần đó. Đội công tác của Quân chủng nhận lệnh đến ngay hiện trường. Chiếc MiG-21 của phi công Vũ Xuân Thiều nằm cách chiếc B-52 Mỹ chừng vài trăm mét bên kia quả đồi. Đơn vị và nhân dân địa phương đã tổ chức lễ an táng cho phi công Vũ Xuân Thiều tại Nghĩa trang liệt sĩ huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La."
"... Ngay tối ngày 28 tháng 12, lúc khoảng 12 giờ đêm, tôi nhận được điện từ sở chỉ huy giao dẫn đầu đoàn cán bộ lên địa điểm nơi phi công Vũ Xuân Thiều bắn rơi B-52 tại Sơn La để nắm và xác minh tình hình. Khi đến nơi, tôi có gặp các chiến sĩ bộ binh đóng quân tại khu vực, mọi người đều nói tối hôm qua thấy hai bó lửa rất to bùng cháy và rơi xuống. Đứng trên đồi, chúng tôi nhìn thấy xác B-52 cháy sém một phía, phía bên kia quả đồi là xác chiếc MiG-21 màu ánh bạc. Chúng tôi còn nhặt được hai mảnh xác máy bay MiG-21 và B-52 găm vào nhau, đó là dấu hiệu cho thấy máy bay của Thiều đã lao vào chiếc B-52. Tôi lập tức điện về báo cáo tình hình cho Bộ tổng tham mưu và Quân chủng Phòng không-Không quân:
"Chúng tôi đã đến hiện trường, sờ được xác máy bay B-52, chính xác Vũ Xuân Thiều đã bắn rơi B-52 ở cự ly gần và lao vào chiếc B-52, tôi sẽ mang hai mảnh xác máy bay găm vào nhau về báo cáo."
Với kinh nghiệm nhiều năm chiến đấu và chỉ huy chiến đấu, tôi linh cảm rằng trong giây phút cuối cùng, Vũ Xuân Thiều đã quyết tử để quyết tâm tiêu diệt B-52."  
-Thiếu tướng Phạm Ngọc Lan-
"Trong các phương án, không có phương án cho máy bay lao cảm tử vào B-52 nhưng chúng tôi biết cánh phi công trẻ vẫn ngầm quyết tâm với nhau như thế.
Hôm sau, đã chắc chắn máy bay địch rơi và Thiều bặt tin. Anh ấy đã hy sinh sau khi cảm tử hạ B-52... Nguyễn Đức Soát không biết hút thuốc lá. Đêm ấy anh đang nằm ở giường trong hầm trực chiến. Chiến sĩ liên lạc vào bảo trung đoàn trưởng Nguyễn Hồng Nhị gọi ra hầm sở chỉ huy. Mặc quần áo đi ra, có ô tô chờ ở chân hầm, ra đến nơi thì Thiều cất cánh rồi, đã mất liên lạc. Hai anh em mở lại băng ghi âm để nghe dẫn đường tả lại nơi mà Thiều chiến đấu. Trời rét, cả hai mặc áo bông, thủ trưởng Nhị để lên bàn hộp thuốc, Soát hút một hơi ho sặc sụa... Ngồi đến 5 giờ sáng, không ai nói với ai câu gì. Sau đó Nguyễn Hồng Nhị bảo cấp dưới đi về để triển khai đánh tiếp ngày hôm nay. Nguyễn Đức Soát hút thuốc lá từ đêm 28. Chỉ trong một ngày đêm, đại đội anh mất một lúc hai máy bay, hai phi công cảm tử."
-Thiếu tướng Trần Hanh-
"Mình đã giao ban buổi tối ở đại đội xong. Đoàn trưởng lại gọi sang gặp. Sau khi hỏi về việc chuẩn bị chiến đấu cho bộ đội ngày mai xong, đoàn trưởng thông báo: trên chính thức công nhận đêm qua Thiều hạ được một B-52. Radar C-26 ở Cẩm Thủy dẫn Thiều cất cánh từ sân bay Cẩm Thủy - tên mật: XB-90 - lên đánh vào một tốp B-52 bay vào đánh Hà Nội.
Thiều gặp địch ở Sơn La trong điều kiện không thuận lợi. Ở cao độ 10.000 mét mà góc vào 90 độ, cự ly chỉ 4 km (nó nhìn bằng đèn vì không dám bật radar). Thiều vào công kích. Một phút sau, chỉ huy sở mất liên lạc với Thiều. Không biết tin Thiều có nhảy dù được hay đã hy sinh. Sợ nó đâm vào B-52. Hiện nay bọn Mỹ đang đi cứu giặc lái ở Sơn La.
Đồng thời anh Nhị còn bảo: Hùng hôm qua hạ hai máy bay. Người ta bắt thêm hai thiếu tá Mỹ. Nó khai bị MiG bắn rơi. Hùng đã hy sinh.
Thiều là bạn thân của mình. Nó thông minh, sống chân tình và rất mực đức độ. Trong chuyện riêng, nhiều lần mình đã tìm đến Thiều. Mới đây, trung đoàn giao cả trung đội bay đêm về cho đại đội mình. Thiều là đội trưởng.
Thật là đáng tiếc khi bị mất những đồng chí rất tốt trước ngày thắng lợi.
Thật tự hào có những người lính không tiếc cả cuộc sống của mình trong giờ phút thử thách quyết liệt của dân tộc, đã mang về những chiến công hiển hách.
Máu đổ cho ngày hòa bình."
-Nhật ký Nguyễn Đức Soát-
Trên gác 2 căn nhà số 21 phố Đặng Dung, phường Quán Thánh, quận Ba Đình, Hà Nội, nơi Vũ Xuân Thiều trước đây vẫn hằng ngày đạp xe đi học tại trường Chu Văn An và trường Đại học Bách khoa Hà Nội, có rất nhiều sách, báo viết về Vũ Xuân Thiều và nhiều kỷ vật của anh mà gia đình còn lưu giữ. Trong những kỷ vật đáng quý đó có mảnh máy bay B-52 Mỹ-chiếc máy bay bị chiếc MiG-21 của Vũ Xuân Thiều tiêu diệt. Chiếc đồng hồ do Quân chủng tặng gia đình được đặt bên bàn thờ anh, kim đồng hồ cố định ở con số 9 giờ 45 phút (đêm) cái thời điểm vinh quang mà người phi công cảm tử đã anh dũng hy sinh.
Mọi cuộc chiến tranh đều có những toan tính chính trị đứng phía sau, nhưng mọi người lính trên chiến trường thì chỉ có một toan tính duy nhất là lòng quả cảm phục vụ cho mục đích cuộc chiến đấu của mình.
Không có 3 phát AK chào vĩnh biệt từ mặt đất nhưng con én bạc MiG-21 cùng phi công-liệt sỹ Vũ Xuân Thiều làm quả tên lửa thứ 3 nổ tung cùng chiếc B-52 chở đầy bom trên bầu trời Sơn La đêm ngày 28 tháng 12 năm 1972 đã gửi lại Tổ quốc lời chào vĩnh biệt, để giữ vững bình yên cho vùng trời đất nước.
Mọi cuộc chiến tranh không thể tránh khỏi mất mát, hy sinh, nhưng cách mà một người lính ra đi như thế nào và với mục đích gì thì luôn được nhắc nhớ. Quả tên lửa mang tên Vũ Xuân Thiều đã góp phần để hàng ngàn người dân được tiếp tục sống, hàng vạn trẻ thơ được tiếp tục đến trường. Anh đã góp cuộc đời mình cho nền độc lập của Tổ quốc!
Kết thúc
Ngày 29 tháng 12 năm 1972, máy bay Mỹ vẫn đánh phá các trận địa tên lửa, sân bay, các đầu mối giao thông quan trọng và cầu, phà quanh Hà Nội. Đêm 29, máy bay Mỹ hoạt động ít hơn những ngày trước. Ngày và đêm hôm đó, 2 máy bay Mỹ, trong đó có một chiếc B-52 bị hạ. Đây là chiếc B-52 cuối cùng bị bắn rơi trong 12 ngày đêm.
7 giờ sáng ngày 30 tháng 12, Tổng thống Mỹ Richard Nixon tuyên bố ngừng ném bom từ Bắc vĩ tuyến 20 trở ra, kết thúc cuộc tập kích chiến lược quy mô lớn bằng máy bay B-52 của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng mang tên Linebacker II.  
Sáng ngày 28 tháng 12 năm 2012, gia đình phi công Hoàng Tam Hùng có một cuộc gặp gỡ nho nhỏ với anh em đồng đội cùng chiến đấu với anh. Chàng sinh viên Bách Khoa, con trai duy nhất của một vị phó thủ tướng đã tình nguyện nhập ngũ và hy sinh khi mới 23 tuổi đời, sau một trận đánh oanh liệt trên bầu trời, bắn rơi một lúc hai máy bay địch. Anh chết quá trẻ. Nhưng đồng đội thì không ai quên. Ngày ấy tháng ấy, bao giờ bàn thờ người lính trẻ cũng có hoa trắng của bạn bè.
Cũng tháng 12 này, trong cái lạnh tê tái của miền sơn cước, dưới mái thiền viện mới dựng sơ sài, đại đức Thích Chánh Tuệ, ngày nào là đại đội trưởng radar Đinh Hữu Thuần ngồi bâng khuâng:
"Thầy đã quyết đi theo Đức Phật hoàng Trần Nhân Tông, đất nước hết binh đao là buông tay gác kiếm, ăn chay niệm Phật..."
Vị tu hành đang băn khoăn giữa việc tu hành với việc về Hà Nội dự lễ kỷ niệm Nhà nước 40 năm chiến thắng B-52:
"Không muốn xuất hiện ở chốn đông người, không muốn nhắc lại những chuyện đã qua, nhất là nhớ đến những cái chết đau thương của anh em. Nhưng lại vẫn nhớ. Nhớ những đồng đội cùng đại đội với mình, nhớ những giọng nói của các anh phi công ngày nào cũng dẫn đường mà chưa hề thấy mặt. Thầy nhớ nhất giọng nói anh Vũ Đình Rạng. Thầy đã dẫn đường cho anh Rạng đánh bao nhiêu trận. Chưa gặp bao giờ, nhưng chỉ cần nghe giọng nói là nhận ra ngay. Dù hơn 40 năm rồi. Cái giọng nói của những người cùng chiến đấu với nhau nó lạ lắm, ăn vào tim óc."
Tháng 12, chuẩn bị tết, trong một con ngõ nhỏ trên phố Khâm Thiên, nhà quay phim Trần Hùng-người đã nổi tiếng với những thước phim tuyệt đẹp trong các bộ phim Thời xa vắng và Chuyện của Pao đang chuẩn bị kế hoạch lên Mộc Châu kiếm một cành đào phai về chơi tết. Năm nào anh cũng rong ruổi đi kiếm đào tết về để biếu nhà văn Nguyên Ngọc một cành và cho căn gác nhỏ xíu trong con hẻm phố Khâm Thiên của mình một cành.
Căn gác nhỏ đã tan tành sau trận bom B-52 đêm ngày 26 tháng 12 năm 1972, cậu bé Trần Hùng năm đó 14 tuổi từ nơi sơ tán về đã sững sờ trước dãy phố Khâm Thiên đổ nát và tổ ấm của gia đình mình tan hoang. Nhưng thời gian đã làm tròn nhiệm vụ của nó, Trần Hùng vẫn ở lại phố Khâm Thiên, nhặt từng viên gạch xây lại tổ ấm. Và giờ đây, con anh lớn lên trên phố Khâm Thiên, chỉ biết về những trận bom B-52 qua câu chuyện của bố. Trần Hùng vẫn mơ ước được quay một bộ phim về Khâm Thiên - Hà Nội - B-52. Nhưng có lẽ trong thời buổi điện ảnh thị trường này điều đó hơi xa vời.
Và một buổi chiều mùa đông xám lạnh cũng tháng 12 này, trên nghĩa trang liệt sĩ Hà Nội, nơi có ngôi mộ bé nhỏ của liệt sĩ Vũ Xuân Thiều, có hai người lặng lẽ đến thắp một nén hương. Họ luôn bày tỏ lòng thương tiếc và biết ơn tận đáy lòng mà chỉ có những người trong cuộc hiểu được. Đó là Trung tướng Nguyễn Đức Soát và vợ ông, bà Lê Hoàng Hoa. Bà Hoa là người yêu của anh hùng phi công Vũ Xuân Thiều. Mối tình thơ mộng của cô nữ sinh Hà Nội xinh đẹp và anh phi công hào hoa đã tràn ngập qua những bức thư tình mà Vũ Xuân Thiều gửi gắm cho Nguyễn Đức Soát trước giờ ra trận:
"Mình không về, Soát đưa cái này cho mẹ mình, còn cái này tìm đưa cho Hoa."
Vũ Xuân Thiều không về. Và hơn một năm sau Nguyễn Đức Soát mới gặp Lê Hoàng Hoa, khi cô đang du học ở Liên Xô. Tình yêu giữa đôi trai tài gái sắc và tình yêu chung với người đã khuất đã kéo dài gần 40 năm. Nhìn họ, người ta hiểu hạnh phúc là có thật. Và máu xương của những người như Vũ Xuân Thiều đổ xuống đã không tan vào hư vô.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét