Tháng 7 năm 1937, cuộc đụng độ giữa binh lính Nhật Bản và Trung Quốc đã leo thang thành một cuộc chiến tranh tổng lực. Nhật Bản và Trung Quốc ở trong thế giằng co. Người Nhật tiến vào Thượng Hải và nhanh chóng tới Nam Kinh (thủ phủ tỉnh Giang Tô, miền đông Trung Quốc).
Ngày 5 tháng 8 năm 1937, Thiên Hoàng Chiêu Hòa đích thân phê chuẩn lời đề nghị từ phía quân đội của ông ngừng tôn trọng luật pháp quốc tế đối với các tù binh chiến tranh Trung Quốc trong tay. Nghị định này cũng hướng dẫn các sĩ quan tham mưu ngừng sử dụng thuật ngữ "tù binh chiến tranh".
Tới giữa tháng 11, người Nhật đã dễ dàng chiếm được Thượng Hải với sự trợ chiến của hải quân và không quân. Tổng tư lệnh Bộ tham mưu tại Tokyo đã quyết định không mở rộng thêm nữa cuộc chiến vì số lượng tổn thất to lớn cũng như tinh thần đang suy sụp trong binh lính Thiên Hoàng.
Tưởng Giới Thạch, người có trách nhiệm cao nhất về quân sự trong chính phủ Quốc dân khi ấy đã triệu tập một cuộc hội nghị ở Nam Kinh, thảo luận về vấn đề phòng thủ thủ đô Nam Kinh. Các tướng lĩnh cao cấp được triệu tập tới gồm Lý Tông Nhân, Bạch Sùng Hỷ, Đường Sinh Trí, Hà Ứng Khâm, Từ Vĩnh Xương, v.v... Trưởng đoàn cố vấn quân sự người Đức cũng có mặt.
Nhìn vào tình thế lúc bấy giờ, giữ Nam Kinh đã không còn ý nghĩa về mặt quân sự: sau khi Thượng Hải và vịnh Hàng Châu lần lượt thất thủ, Nam Kinh đã mất chỗ dựa, quân Nhật ngày đêm tranh thủ chia quân làm hai đường bao vây Nam Kinh. Về mặt chiến thuật mà xét, Nam Kinh là tử địa, quân địch có thể ba mặt bao vây, phía bắc giáp với sông Dương Tử, không thể có đường rút.
Sau thảm bại ở Tùng Hộ, tinh thần quân đội Trung Quốc xuống thấp, lại không được tăng viện, khó có thể giữ được Nam Kinh. Quân Nhật lại đang khí thế hừng hực, tinh thần hăng hái, việc chiếm lấy thủ đô Trung Quốc sẽ có tác dụng khích lệ tinh thần rất lớn khiến quân sĩ thà chết để "kiến công lập nghiệp". Cho nên giữ Nam Kinh không chỉ khiến quân đội Trung Quốc gặp cuộc tấn công chịu hy sinh xương máu mà Nam Kinh, kinh đô của 6 triều đại: Đông Ngô (222–280), Đông Tấn (317-420), Lưu Tống (420–479), Nam Tề (479–502), Lương (502–557), Trần (557–589), nền văn hóa tụ hội từ hơn 2 nghìn năm nay sẽ gặp nhiều tổn thất, dân chúng cũng sẽ không tránh khỏi tai ương.
Dựa vào hoàn cảnh đó, phương án lớn nhất của chính phủ là chủ trương tuyên bố "để ngỏ Nam Kinh", rút quân đội ra khỏi Nam Kinh, chọn chiến trường giao tranh là ở vùng ngoại ô. Nhưng tuyên bố "không phòng thủ", bỏ thủ đô Nam Kinh là trách nhiệm chính trị mà chính phủ Quốc dân không dễ đương đầu, đặc biệt với Tưởng Giới Thạch, người mà sau thất bại ở Tùng Hộ uy tín đang giảm sút nghiêm trọng. Giờ đây, nếu bỏ Nam Kinh, Tưởng Giới Thạch nghĩ ngay đến nguy cơ chính trị nghiêm trọng đang chờ đợi ông ta. Vì thế, Tưởng triệu tập hội nghị để mong tìm được một giải pháp tốt nhất.
Trừ một số người thờ ơ với việc này, Lý Tông Nhân, Bạch Sùng Hỷ, Phùng Ngọc Tường kiên quyết chủ trương bỏ Nam Kinh, lấy vùng ngoại ô làm nơi quyết chiến với người Nhật.
Trong việc này, bản thân Tưởng Giới Thạch vốn có mâu thuẫn: đánh, tất sẽ chịu thất bại, còn rút sẽ không thể tránh khỏi sự chỉ trích của công luận. Trong cuộc biểu tình phản đối, các "chính trị gia" ở Thượng Hải đã đưa ra nguyên tắc:
"Nam Kinh là thủ đô và nơi có lăng tẩm của quốc phụ Tôn Trung Sơn, không thể không chiến đấu để bảo vệ mà rút lui. Cá nhân tôi chủ trương phải tử thủ".
Tưởng Giới Thạch rất đau đầu. Các tướng lĩnh tất nhiên thái độ không rõ ràng, người nọ nhìn người kia, không bảo đánh cũng không bảo rút. Không khí hội nghị trầm hẳn xuống. Không có cách nào, Tưởng Giới Thạch quay sang hỏi Tổng tham mưu trưởng Hà Ứng Khâm và Bộ trưởng Từ Vĩnh Xương, cả hai đều là thân tín của Tưởng. Cả hai "dị khẩu nhưng đồng thanh":
"Chúng tôi không có ý kiến gì, tất cả đều tuân theo ý chỉ của Ủy viên trưởng."
Quả bóng lại tới chân của Tưởng Giới Thạch. Ông ta lại quay người sang hỏi ý kiến cố vấn quân sự người Đức. Ông cố vấn chỉ đơn giản suy nghĩ về mặt quân sự nên ra sức chủ trương rút khỏi Nam Kinh, không nên để hy sinh vô ích.
Tưởng Giới Thạch suy nghĩ, nhất là ý kiến của cố vấn Đức, nhưng dù đánh hay bỏ đều là trách nhiệm của bản thân mình. Vì thế, Tưởng lại hỏi ý kiến các tướng lĩnh. Nhưng mọi người ai cũng đều lưỡng lự không quyết định. Khi hỏi tới Đường Sinh Trí, vị tướng nổi tiếng trong chiến tranh Bắc phạt này đứng dậy, nói lớn:
"Thủ đô là nơi đặt lăng tẩm của Quốc phụ. Nếu có hy sinh ở đây một hai vị đại tướng, chúng ta không những bảo vệ được sự linh thiêng mà còn tỏ rõ trách nhiệm với vị lãnh đạo cao nhất của chúng ta. Tôi vốn chủ trương tử thủ Nam Kinh, không thể đầu hàng kẻ địch!"
Thấy thái độ của Đường Sinh Trí khẳng khái kiên cường như vậy, Tưởng Giới Thạch cảm thấy nếu mình bỏ Nam Kinh sẽ chịu búa rìu của dư luận nên như con thuyền thuận theo dòng nước nói:
"Vậy xin lão tướng cho kế hoạch và đảm nhận chức vụ Tổng tư lệnh việc bảo vệ Nam Kinh."
Đường Sinh Trí chấp thuận ngay, thề sẽ hy sinh xương máu, cùng tồn vong với thành Nam Kinh. Tử thủ Nam Kinh không còn là vấn đề trọng đại đem ra thảo luận mà đã được quyết định.
Khi quân đội Nhật Bản đã áp sát Nam Kinh, thường dân Trung Quốc ở đây đã lũ lượt bỏ chạy khỏi thành phố và quân đội Trung Quốc đưa ra thi hành chiến dịch tiêu thổ kháng chiến với mục tiêu hủy hoại bất kỳ thứ gì có thể bị sử dụng bởi quân đội Nhật Bản. Các mục tiêu bên trong và bên ngoài phạm vi thành phố như các trại lính, nhà cửa, Bộ thông tin, rừng rú và thậm chí là toàn bộ các ngôi làng bị đốt cháy tận móng, ước tính giá trị của chúng lên tới 20 đến 30 triệu dollar Mỹ (thời giá năm 1937).
Ngày 2 tháng 12, Thiên Hoàng Chiêu Hòa chỉ định chú của mình là hoàng tử Yasuhiko Asaka làm tư lệnh cuộc xâm lược. Rất khó biết, với tư cách thành viên gia đình hoàng gia, Asaka liệu có quyền uy tối cao đối với Đại tướng Matsui Iwane, người chính thức là tổng tư lệnh chiến dịch hay không, nhưng rõ ràng vì ở trong hàng ngũ sĩ quan cao cấp nhất, ông có quyền đối với các vị chỉ huy cấp sư đoàn, các trung tướng Nakajima Kesago và Yanagawa Heisuke.
Ngày 3 tháng 12, quân Nhật áp sát Nam Kinh, hai bên bắt đầu chuẩn bị chiến đấu. Ngày 9, quân Nhật bắt đầu cho tấn công ngoại vi thành Nam Kinh. Vào lúc ấy, "người anh hùng" đã thề "tồn vong cùng Nam Kinh", "Đào hố tử thủ mảnh đất của Quốc phụ" Đường Sinh Trí đã nhường việc hy sinh bảo vệ Nam Kinh cho người khác, còn mình thì tới nhà ga Phố Khẩu chuẩn bị lên xe chạy về phía bắc.
Nhiều người phương Tây đang sống trong thành phố Nam Kinh ở thời điểm đó, họ là các thương nhân hay nhà truyền giáo cho nhiều tôn giáo khác nhau. Khi quân đội Nhật Bản bắt đầu các phi vụ không kích bằng máy bay vào Nam Kinh, đa số người phương Tây và toàn bộ các phóng viên đều quay về nước, chỉ trừ 22 người, gồm cả doanh nhân John Rabe của tập đoàn Siemens (Đức) vì tư cách là một nhân vật Fascio (Phát Xít) và đồng minh song phương Nhật-Đức trong hiệp ước chống Quốc tế Cộng sản, ông đã ở lại và thành lập ra một ủy ban, gọi là ỦY BAN QUỐC TẾ VỀ AN TOÀN KHU NAM KINH. Rabe được bầu làm lãnh đạo ủy ban này. Ủy ban đã lập ra AN TOÀN KHU NAM KINH ở khu vực phía tây thành phố. Chính phủ Nhật Bản đã chấp nhận không tấn công vào những vùng không có quân đội Trung Hoa Quốc dân Đảng chiếm giữ của thành phố và các thành viên Ủy ban Quốc tế về An toàn khu Nam Kinh đã tìm cách thuyết phục chính phủ Tưởng Giới Thạch rút lui toàn bộ binh sĩ của họ ra khỏi khu vực.
Người Nhật quả thực đã tôn trọng An toàn khu tới một mức độ nào đó, không một quả đạn pháo nào rơi vào khu vực này chỉ trừ vài viên đạn lạc. Trong thời gian hỗn loạn sau cuộc tấn công vào thành phố, một số người đã bị giết hại trong An toàn khu nhưng những hành động bạo lực xảy ra trong khu vực này thấp hơn rất nhiều so với các nơi khác về mọi phương diện.
Ngày 7/12/1937, quân đội Nhật Bản ra một sắc lệnh cho tất cả binh lính, cho rằng hành động chiếm giữ một thủ đô nước ngoài là sự kiện chưa từng có trong lịch sử Nhật Bản, vì thế tất cả những binh sĩ "phạm bất kỳ hành vi sai trái nào", "làm mất danh dự quân đội Thiên Hoàng", "cướp bóc", hay "để hỏa hoạn cháy lan, thậm chí vì lý do bất cẩn" sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc.
Quân đội Nhật Bản tiếp tục tiến về phía trước, chọc thủng những tuyến phòng thủ cuối cùng của quân kháng chiến Trung Quốc và tới sát ranh giới thành phố Nam Kinh ngày 9/12/1937. Vào buổi trưa, quân đội dùng máy bay thả truyền đơn vào thành phố, hối thúc Nam Kinh đầu hàng trong 24 giờ:
"Quân đội Nhật Bản, với sức mạnh 1 triệu quân, đã chinh phục Thường Thục (Tô Châu). Chúng tôi đã bao vây thủ đô Nam Kinh... Quân đội Nhật Bản sẽ không khoan dung với những kẻ phản kháng, trừng phạt chúng nghiêm khắc nhất nhưng sẽ không gây hại tới những thường dân Trung Hoa vô tội cũng như những binh sĩ trong quân đội Quốc dân Đảng và những người không kháng cự. Mong ước cao nhất của chúng tôi là bảo vệ nền văn hóa Đông Á. Nếu quân đội Trung Quốc tiếp tục kháng cự, chiến tranh tại Nam Kinh là không thể tránh khỏi. Nền văn hóa đã kéo dài hơn một nghìn năm sẽ chỉ còn là đống tro tàn và chính phủ Dân Quốc đã tồn tại từ hơn một thập kỷ nay sẽ bị đập tan. Bản sắc lệnh này được gửi dưới danh nghĩa Tổng tư lệnh Quân đội Nhật Bản. Hãy mở cửa thành phố Nam Kinh theo cách hòa bình và tuân theo những huấn lệnh dưới đây."
Quân đội Nhật Bản dừng lại bên ngoài thành phố chờ đợi câu trả lời. Tới 1 giờ chiều ngày hôm sau, khi không thấy phái đoàn Trung Quốc nào tới đầu hàng, tướng Matsui Iwane ra lệnh dùng vũ lực chiếm Nam Kinh.
Ngày 12/12, sau hai ngày tấn công của quân đội Nhật Bản, với pháo binh dồn dập và những cuộc ném bom yểm trợ từ trên không. Diễn biến tiếp theo là sự hoảng loạn. 15 vạn quân giữ thành Nam Kinh sau ba bốn ngày bắt đầu rút lui. Đường Sinh Trí lúc này đã chạy được tới Từ Châu (Giang Tô), Nam Kinh giờ vô chủ trở nên đại loạn. Hàng loạt binh lính Quốc dân Đảng vứt bỏ binh phục đóng giả thường dân để trốn tránh cuộc chiến không cân sức đang tới ngày càng gần, nhiều người khác bị sĩ quan của họ bắn vào lưng khi tìm cách trốn chạy khỏi thành phố. Những người đã ở bên ngoài thành phố bỏ chạy về phía bắc tới sông Dương Tử, chỉ để thấy rằng không có một chiếc thuyền nào đợi ở đó để cứu họ. Một số người tuyệt vọng nhảy xuống làn nước mùa đông hòng bơi về bờ bắc và chết đuối dưới làn nước lạnh giá.
Ngày 13/12/1937, quân Nhật tiến vào chiếm đóng thành phố mà không gặp khó khăn nào. Trung Quốc quá rộng lớn làm chùn chân người lính, cảm thấy bị sỉ nhục vì không chiếm được Trung Quốc trong vòng 3 tháng như đã hứa với Thiên Hoàng, quân đội Nhật tiến hành chiến dịch giết người, hãm hiếp và cướp phá để trả thù cho tới tháng 3/1938.
Lấy cớ "truy tìm các binh lính Trung Quốc còn ở lại trong thành phố", quân Nhật xông vào mọi nhà cướp phá, lục soát, thấy thanh niên trai tráng là bắn giết. Với binh lính bị bắt làm tù binh, họ cho giết hoặc chôn sống tập thể. Giữa đêm ngày 18 tháng 12 năm 1937, quân Nhật đem toàn bộ 57.418 tù nhân giam trong nhà tù Mạc Phủ Sơn buộc dây thép xuyên qua bàn tay họ với nhau rồi dùng súng máy bắn chết tất cả, một số người còn sống sót trong đám máu và thi thể những người chết bị dùng kiếm giết chết hoặc sử dụng trong các bài tập lưỡi lê, sau đó, toàn bộ xác chết được đem thiêu thành tro bên bờ nam sông Dương Tử.
Ở trong và ngoài thành phố, các thi thể phụ nữ nằm la liệt khắp nơi. Trong một ngôi nhà gần cổng Zin Zong, một phụ nữ ở độ tuổi 60 nằm đó, thi thể sưng húp lên, trên phố Yang Pi, một em gái đã chết, bụng bị mổ và ruột bị moi ra ngoài, hai mắt mở trừng trừng, miệng vẫn còn dính máu. Trên phố Gu Yi Dian, một em gái trạc 12 tuổi nằm đó, quần áo bị xé rách, mắt nhắm, miệng mở.
Trong thời gian sáu tuần tiếp theo kể từ khi Nam Kinh sụp đổ, quân đội Nhật Bản đã thực hiện các hành vi hãm hiếp, giết hại, trộm cướp, và đốt phá. Những lời chứng đáng tin cậy nhất là từ phía những người nước ngoài đã chọn lựa ở lại để bảo vệ những thường dân Trung Quốc khỏi những hành động kinh hoàng đó, gồm những cuốn nhật ký của John Rabe và Minnie Vautrin. Những nguồn tin khác gồm những lời tường thuật từ phía những người sống sót sau vụ thảm sát Nam Kinh. Ngoài ra còn có báo cáo từ phía những nhân chứng tận mắt chứng kiến khác như các nhà báo, cả phương Tây và Nhật Bản, cũng như nhật ký của một số thành viên quân đội. Một nhà truyền giáo Mỹ, John Magee đã ở lại và quay được một cuốn phim 16 mm và một số bức ảnh về vụ thảm sát Nam Kinh. Ngoài ra, dù rất ít cựu chiến binh Nhật thừa nhận từng tham gia vào những hành động tàn ác tại Nam Kinh, một số người mà nổi tiếng nhất là Shiro Azuma đã thừa nhận có thực hiện hành vi đó.
Ngay sau khi thành phố sụp đổ, một nhóm người nước ngoài dưới sự chỉ huy của John Rabe đã hình thành nên Ủy ban Quốc tế gồm 15 người ngày 22/11/1937 và lập ra An toàn khu Nam Kinh để bảo vệ mạng sống của các thường dân trong thành phố, với số lượng khoảng 200.000 tới 250.000 người. Có lẽ con số nạn nhân là dân thường sẽ cao hơn nhiều nếu vùng an toàn này không được lập ra. Rabe và nhà truyền giáo Mỹ Lewis S. C. Smythe, thư ký của Ủy ban Quốc tế, người cũng là một giáo sư tại Đại học Nam Kinh, đã ghi lại những hành động tàn ác của quân đội Nhật Bản và gửi nhiều báo cáo phàn nàn tới đại sứ quán Nhật.
Hãm hiếp
"Hôm nay, có lẽ không có tội ác nào xảy ra ở thành phố này. 30 em gái bị đưa khỏi trường ngôn ngữ (nơi tôi làm việc) đêm qua, và hôm nay tôi nghe thấy nhiều câu chuyện đau lòng của những em gái bị đưa ra khỏi nhà đêm qua - một trong những em đó mới 12 tuổi... tối nay một chiếc xe tải chạy qua chỗ chúng tôi và trong đó là tám hay mười cô gái khác, và khi nó chạy qua họ gào lên "Ging ming! Ging ming!" (cứu chúng tôi!)." (Nhật ký Minnie Vautrin ngày 16/12/1937).
"Đó là một câu chuyện quá khủng khiếp để tường thuật lại, tôi không biết nên bắt đầu và kết thúc ở đâu. Tôi chưa bao giờ nghe hay đọc về một sự tàn bạo đến như vậy. Hãm hiếp: Chúng tôi ước tính ít nhất 1.000 vụ mỗi đêm và rất nhiều vào ban ngày. Trong trường hợp phản kháng hay bất kỳ điều gì có vẻ là sự bất tuân đó sẽ là một nhát lê đâm hay một viên đạn." (James McCallum, thư gửi về gia đình ngày 19/12/1937)
Bên ngoài cổng Hồng Vũ, binh lính Nhật hãm hiếp một phụ nữ đang mang thai rồi cắt bụng nạn nhân, lấy thai nhi ra ngoài. Trong một vụ khác, binh lính Nhật muốn cưỡng hiếp một phụ nữ đang bụng mang dạ chửa, mẹ chồng cô tìm mọi cách ngăn lại. Lập tức, bà bị đá, còn người con dâu bị đâm. Lính Nhật còn dùng dao lấy bào thai ra ngoài.
Cuộc giết chóc bắt đầu
Nhiều người nước ngoài sống tại Nam Kinh vào thời điểm đó đã ghi lại những trải nghiệm của họ về điều đang diễn ra trong thành phố:
John Magee trong bức thư của ông gửi về gia đình: "Sự tàn sát thường dân đang diễn ra một cách kinh hoàng. Tôi có thể viết nhiều trang kể lại những vụ hãm hiếp và sự tàn bạo hầu như đã vượt quá sự tưởng tượng. Hai thân hình bị đâm bằng lưỡi lê là những người còn sống sót duy nhất trong số bảy công nhân vệ sinh thành phố, những người đang ở trong trụ sở làm việc của họ khi quân đội Nhật Bản tràn vào không có bất kỳ một sự cảnh báo nào hay một lý do nào họ giết năm người trong số đó và làm bị thương hai người đang tìm cách chạy trốn tới bệnh viện." trong bức thư gửi cho vợ: "Chúng không chỉ giết bất kỳ tù nhân nào tìm thấy mà còn giết hại rất nhiều thường dân ở mọi lứa tuổi... Chỉ ngày hôm kia thôi bọn anh đã thấy một người nghèo khổ bất hạnh bị giết ngay gần ngôi nhà anh đang sống."
"Chúng dùng lưỡi lê đâm một đứa trẻ, giết nó, và anh đã mất một giờ rưỡi sáng nay để cứu chữa thân thể một đứa trẻ mới lên tám khác với năm vết lê đâm và một phát xuyên tới tận dạ dày nó, nhiều phần ruột đã lòi ra ngoài bụng." (Robert Wilson trong một bức thư gửi về cho vợ)
Phóng viên Tillman Durdin của tờ New York Times đưa tin về thời kỳ đầu cuộc thảm sát viết: "Tôi 29 tuổi và đó là câu chuyện lớn đầu tiên của tôi cho tờ New York Times. Vì vậy, tôi lái xe xuống sát mặt nước. Tôi phải vượt qua những đống xác người chất ở đó. Ô tô phải đi qua những xác chết. Ở sát bờ sông Dương Tử, tôi thấy một đám sĩ quan Nhật hút thuốc, nói chuyện giám sát việc thảm sát một tiểu đoàn lính Trung Quốc vừa bị bắt. Lính Nhật đi thành nhóm khoảng 15 người, được trang bị súng máy. 200 người bị hành quyết trong vòng 10 phút trong sự cổ vũ, tán dương của các khán giả quân đội Nhật." Durdin kết luận vụ thảm sát Nam Kinh là "một trong những tội ác dã man nhất thời hiện đại".
Ngay sau khi thành phố sụp đổ, quân đội Nhật Bản đã tiến hành một chiến dịch tìm kiếm rộng khắp với những cựu chiến binh đối phương với hàng ngàn thanh niên bị bắt giữ. Nhiều tốp người tiếp tục được mang tới pháp trường bên bờ sông Dương Tử, bị hành quyết bằng súng máy để xác họ có thể trôi xuống Thượng Hải. Chặt đầu đã trở thành biện pháp giết người thông dụng nhất, tuy nhiên những hành động giết người tàn bạo khác như thiêu sống, đóng đinh lên cây, chôn sống, và treo lưỡi cũng được áp dụng. Một số người bị đánh tới chết. Người Nhật cũng có thể đơn giản hành quyết những người đi bộ trên đường phố thường bằng acid với lý do họ có thể là binh lính đang cải trang làm dân thường.
Hơn 300 hộ dân trong ngõ Vương Phủ bị quân Nhật nhiều lần tắm máu. Thấy người đi trên đường, lính Nhật bắt rồi chặt đầu, có nhiều gia đình tất cả mọi người đều bị giết. Trong có mấy ngày, hơn 500 người trong con ngõ này đã bị giết.
Hàng nghìn người bị giải đi và bị hành quyết tập thể tại một chiếc hố được gọi là "Hố mười nghìn xác", một cái rãnh dài khoảng 300 mét và rộng 5 mét. Người Trung Quốc được giải đến bên miệng hố rồi lần lượt bị giết cho xác họ rơi xuống tạo thành nấm mồ tập thể. Vì những bản ghi chép không được giữ lại, những con số ước tính về số nạn nhân bị chôn trong hố này trong khoảng từ 4.000 tới 20.000 người. Tuy nhiên, đa số học giả và sử gia coi con số này ở khoảng 12.000 nạn nhân.
Phụ nữ và trẻ em cũng không thoát khỏi sự tàn bạo của cuộc thảm sát. Những nhân chứng kể lại việc các binh sĩ Nhật tung trẻ em lên không và đỡ chúng bằng lưỡi lê. Phụ nữ có thai thường trở thành mục tiêu bị giết hại, họ thường bị đâm lê vào bụng, và thỉnh thoảng bị giết sau khi đã bị hãm hiếp. Nhiều phụ nữ bị hãm hiếp tàn bạo rồi mới bị giết.
John Rabe, thủ lĩnh đảng Quốc xã tại Nam Kinh, cũng phải hoảng sợ trước tội ác của lính Nhật. Ông phụ trách khu vực an toàn quốc tế và đã kể lại những gì đã chứng kiến, ghi lại trên phim. Tuy nhiên, tất cả những điều này bị Đức Quốc xã cấm khi ông trở về Đức.
Tờ "Đông Kinh nhật nhật tân văn" đã lấy tiêu đề "Kỷ lục giết hơn trăm người" nói chuyện một sĩ quan Nhật dùng kiếm giết người có kèm theo ảnh. Kẻ giết nhiều nhất là một lính Nhật đã giết 106 người Trung Quốc.
Quan điểm thận trọng nhất cho rằng diện tích địa lý của vụ thảm sát chỉ nên được giới hạn trong phạm vi vài kilomet vuông của thành phố được gọi là An toàn khu, nơi các thường dân tụ tập sau cuộc xâm chiếm. Nhiều sử gia Nhật Bản đã nắm lấy sự thực rằng trong thời kỳ xâm chiếm của Nhật Bản chỉ có khoảng 200.000-250.000 thường dân tại Nam Kinh như thông báo của John Rabe, để cho rằng con số 300.000 người chết do Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đưa ra là sự thổi phồng quá mức.
Tuy nhiên, nhiều nhà sử học cho tầm mức vụ việc diễn ra trên một diện tích rộng bao quanh thành phố. Gồm cả quận Xiaguan (vùng phía bắc thành phố Nam Kinh, kích thước khoảng 31 km vuông) và nhiều khu vực khác bên ngoài thành phố, dân số của cả vùng Nam Kinh trong khoảng 53.500.000 tới 63.500.000 người ngay trước cuộc chiếm đóng của Nhật Bản. Một số nhà sử học cũng gộp sáu huyện khác quanh Nam Kinh vào trong vụ việc này, được gọi là Khu đô thị Đặc biệt Nam Kinh.
Thời gian của vụ việc cũng được định nghĩa theo khu vực địa lý của nó: người Nhật vào khu vực này càng sớm thì thời gian càng kéo dài. Cuộc chiến chấm dứt ngày 13 tháng 12, khi các sư đoàn của Quân đội Nhật Bản vượt qua bức tường bao lấy thành phố Nam Kinh. Tòa án Tội phạm Chiến tranh Tokyo đã định nghĩa giai đoạn cuộc thảm sát là sáu tuần kể từ sau sự kiện đó. Những ước tính khác thận trọng hơn nói cuộc thảm sát bắt đầu ngày 14/12 , khi quân đội xâm nhập An toàn khu, và rằng nó chấm dứt sau 6 tuần. Các nhà sử học định nghĩa vụ Thảm sát Nam Kinh bắt đầu từ khi quân đội Nhật tiến vào tỉnh Giang Tô coi vụ thảm sát bắt đầu vào khoảng giữa tháng 11 tới đầu tháng 12 (Tô Châu thất thủ ngày 19/11), và chấm dứt ở cuối tháng 3 năm 1938. Vì thế, số lượng nạn nhân do các nhà sử học này đưa ra cũng lớn hơn nhiều so với ước tính của những nguồn thận trọng hơn.
Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc năm 1945, tòa án quân sự quốc tế vùng Viễn Đông đã tuyên án tử hình với Đại tướng Matsui Iwane vì các cáo buộc tội ác chiến tranh loại BC. Ông bị treo cổ ngày 23 tháng 12 năm 1948 và ngày nay được thờ trong ngôi đền Yasukuni ở Tokyo.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét