Tìm kiếm Blog này

Thứ Tư, 5 tháng 4, 2017

Trận Midway

Tham chiến:
* Hải quân Đế quốc Nhật Bản

Lực lượng chính:
4 tàu sân bay: Akagi, Kaga, Soryu, Hiryu
2 thiết giáp hạm
248 máy bay
16 thủy phi cơ
Lực lượng hỗ trợ:
4 tàu sân bay hạng nhẹ
5 thiết giáp hạm
Chỉ huy:
Isoroku Yamamoto
Chuichi Nagumo
Nobutake Kondo
Tamon Yamaguchi
Matome Ugaki

Ryunosuke Kusaka

* Hải quân Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ

Lực lượng:
3 tàu sân bay (Enterprise, Hornet, Yorktown)
8 tuần dương hạm
15 khu trục hạm
16 tàu ngầm
233 máy bay + 127 máy bay từ đất liền
Chỉ huy:
Chester Limitz
Frank Fletcher
Raymond Spruance
-------
Sau trận hải chiến biển San Hô, báo chí Nhật Bản đua nhau cho đăng tải những bản tin giật gân, Tổng hành dinh Thiên Hoàng ăn mừng chiến thắng, hai tàu sân bay Hoa Kỳ bị hải quân của ta đánh chìm (người Nhật nghĩ rằng cả Lexington và Yorktown đều đã chìm), sức mạnh của hải quân địch bị quân ta đè bẹp ở Nam Thái Bình Dương v.v. Họ còn bình luận, chiến thắng vẻ vang này đã trả lời cho những nghi ngờ của những vị chỉ huy chống lại chiến dịch chiếm Midway, vì họ luôn cho rằng đây là một chiến dịch bất khả thi. Chỉ với một phi đoàn 5 mới lập thiếu kinh nghiệm của chúng ta cũng đủ sức tung hoành trên vùng biển San Hô rồi. Thử hỏi Hoa Kỳ có còn cơ hội nào để kình chống lại hai phi đoàn dạn dày kinh nghiệm là 1 và 2 của chúng ta chứ ?
Vài ngày sau thì hai tàu sân bay mang thương tích đầy mình là Zuikaku và Shokaku cũng về tới Nhật Bản. Sau khi kiểm chứng lại, người ta mới nhìn nhận những hư hại do phi công Hoa Kỳ gây ra quả thật trầm trọng. Riêng chiếc Zuikaku khi bị thương đã bỏ lại nhiều máy bay đang chiến đấu, lúc quay về thì đã mất tàu mẹ nên đa số hụt hẫng như đàn con tung ra tìm mẹ rồi sau đó thì mất tích giữa chốn trời nước. Chiếc Shokaku cũng chẳng may mắn gì hơn, mang thương tích đầy mình khiến cho nó phải nằm ụ ít nhất cũng mất cả tháng mới có thể hoạt động lại được. Nên nhớ rằng hai tàu sân bay này thuộc loại mẫu hạm lớn và được yêu thích nhất của Hải quân Nhật.
Đa số thủy thủ trên tàu Akagi đều có vẻ tin tưởng ở một chiến thắng rất gần, họ hân hoan mua sắm đủ thứ khệ nệ mang xuống tàu. Nào bia, nào rượu sake và thức ăn vô số để mai này lúc thắng trận mang ra mà ăn mừng với nhau. Trong số ấy có Trung úy Heijiro Abe, anh thì tỏ ra dửng dưng với sự náo nức của mọi người. Lúc tàu gần nhổ neo thì Abe lại khuyên chỉ huy trưởng Minoru Genda rằng nên hoãn lại chiến dịch. Abe, chàng Trung úy phi công đã từng ném bom thiết giáp hạm Oklahoma, vừa nhận được lá thư của một người bạn ở Trung Quốc với lời chúc may mắn ở trận Midway.
Abe bảo với Genda là mọi người dường như rất bi quan cho chiến dịch này. Genda cho biết dù sao thì cũng đã muộn vì những hải đội khác họ nhổ neo lên đường rồi.
* Kế hoạch của Nhật Bản
Rạn san hô vòng Midway (hay còn gọi là Đảo Midway hoặc Quần đảo Midway) nằm trong vùng bắc Thái Bình Dương (gần cực tây bắc quần đảo Hawaii) khoảng 1/3 đường từ Honolulu đến Tokyo. Trên vành san hô của Midway là vài đảo cát nhỏ, trong đó đảo Cát (Sand Island) và đảo Đông (Eastern Island) là nơi cư ngụ cho hàng trăm ngàn chim biển.
Đúng như tên gọi của nó, Midway (tiếng Anh nghĩa là "giữa đường") là con đường hàng hải xuyên Thái Bình Dương từ bờ biển phía Tây nước Mĩ sang bờ biển phía Đông châu Á. Ai làm chủ nó, có thể kiểm soát sự di chuyển tàu bè từ Tây sang Đông Thái Bình Dương và ngược lại.
Khi vạch kế hoạch đánh chiếm Midway, đô đốc Yamamoto đã thể hiện ý đồ chiến lược của ông hết sức rõ ràng. Ông muốn mở rộng quyền kiểm soát của Nhật Bản trên Thái Bình Dương và vạch ra một tuyến phòng thủ cách xa bờ biển Nhật ít nhất 3.500km, chạy dài theo hướng Bắc-nam từ quần đảo Aleutian ở phía Bắc, qua Midway đến các quần đảo phía Nam Thái Bình Dương. Như vậy, toàn bộ vùng Thái Bình Dương ở phía Tây phòng tuyến này sẽ thuộc về Nhật Bản. Ông còn muốn một lần nữa tiêu diệt hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ trong trận đánh này, trước hết là các tàu sân bay Mĩ đã thoát khỏi thảm họa Trân Châu Cảng nay trở thành mối đe dọa đối với Nhật.
Cũng như đối với "chiến dịch Z" trước đây, kế hoạch này của Yamamoto đã bị chỉ trích về tính phiêu lưu của nó. Lục quân cũng như nhiều đồng nghiệp của ông trong giới lãnh đạo hải quân nhận thấy rằng việc đánh chiếm một hòn đảo ở cách xa tất cả các căn cứ của Nhật và lại gần Hawaii của Mĩ là điều khó thành công Và nếu có chiếm được thì cũng khó giữ vì những trở ngại trong vấn đề yểm trợ và tiếp tế. Họ cũng cho rằng đánh chiếm Midway không lợi bằng tiến về phía Úc và các quần đảo phía Nam Thái Bình Dương. Nhưng sau khi phi đoàn Doolittle ném bom Tokyo, nhiều người đã phải thay đổi quan điểm. Tổng tham mưu trưởng Nagano ủng hộ ông và kế hoạch đánh chiếm Midway đã được phê chuẩn.
Những tư tưởng chỉ đạo của Yamamoto được trao cho đại tá Kameto Kuroshima, một sĩ quan tham mưu đầy sáng kiến táo bạo, viết thành kế hoạch cụ thể. Hơn 200 hạm tàu các loại được huy động cho chiến dịch khổng lồ này. Ngoài hạm đội Liên hợp là lực lượng chủ yếu sẽ xuất phát từ căn cứ của nó ở tỉnh Hashirajima thuộc biển Nội Hải, một số lực lượng khác được điều động từ những nơi cách xa nhau hàng nghìn dặm để cùng tiến đến Midway.
Lực lượng hành quân được bố trí theo trình tự như:
- Lực lượng đột kích Midway bằng tàu sân bay của hạm đội Liên hợp do phó đô đốc Chuichi Nagumo làm tư lệnh và phó đô đốc Ryunosuke Kusaka làm tham mưu trưởng, gồm có 4 tàu sân bay (soái hạm Akagi, Kaga, Soryu và Hiryu, 2 thiết giáp hạm, 4 tuần dương hạm, 11 khu trục hạm. Đây là lực lượng đi đầu để giáng đòn chủ yếu.
- Lực lượng đổ bộ để chiếm đóng Midway đi tiếp theo gồm 12 hải vận hạm chở theo 5.000 lính đổ bộ, có 4 tuần dương hạm nặng, 1 tuần dương hạm nhẹ đi hộ tống cùng 1 tàu chở dầu.
- Đi sau và cách xa hai lực lượng trên khoảng 500 hải lí là bộ phận còn lại của hạm đội Liên hợp gồm hàng chục tuần dương hạm, hàng chục khu trục hạm, hai tàu sân bay nhẹ và những thiết giáp hạm hùng mạnh nhất của Nhật Bản. Dẫn đầu bộ phận này là "Lực lượng xâm nhập Midway" của phó đô đốc Nobutake Kondo có nhiệm vụ phối hợp và yểm trợ cho lực lượng đổ bộ khi cần. Trên kì hạm mới của hạm đội là thiết giáp hạm lớn nhất thế giới có trọng tải 63.000 tấn mang tên Yamato (Đại Hòa-tên cũ của nước Nhật), đô đốc tư lệnh hạm đội Liên hợp Isoroku Yamamoto và bộ tham mưu của ông đi với 34 chiến hạm sau cùng.
Yamato - Thiết giáp hạm lớn nhất trong lịch sử nhân loại

Để phối hợp với cuộc tiến công Midway, đồng thời đánh lạc hướng sự chú ý của địch, một lực lượng hải quân với hạt nhân là hai tàu sân bay hạng nhẹ Ruyjo và Junyo dưới quyền chỉ huy của phó đô đốc Nosagaia Kakuta sẽ đổ bộ đánh chiếm quần đảo Aleutian cách Midway 3.000 km về phía Bắc.
Như vậy tổng số lực lượng Nhật Bản huy động trong chiến dịch này là 8 tàu sân bay, 11 thiết giáp hạm, 23 tuần dương hạm, 65 khu trục hạm, 21 tàu ngầm. Ngoài ra còn khoảng 90 tàu khác để phục vụ cho các chiến hạm nói trên. Tổng số máy bay tham dự lên đến gần 400 chiếc, trong đó riêng lực lượng đột kích của Nagumo có 261 chiếc bao gồm 84 chiến đấu cơ Zero, 84 máy bay ném bom bổ nhào và 93 máy bay phóng ngư lôi. Đây là đợt ra quân lớn nhất trong toàn bộ lịch sử hải quân Nhật Bản nhằm giành một thắng lợi quyết định cho cuộc chiến tranh.
Lúc 6:00 sáng ngày 27 tháng 05, một hạm đội xung kích của Nagumo gồm 1 tuần dương hạm nhẹ, 11 khu trục hạm, 2 thiết giáp hạm và 4 tàu sân bay sắp thành một hàng thẳng từ từ rời khỏi biển Nội Hải để tiến về phía eo biển Bungo, trong khi các thủy thủ khác trên những chiến hạm còn lại của hạm đội liên hợp vẫy tay chào tạm biệt cùng những câu chúc tụng vang dội.
Nhà chiến lược Yamamoto đã tính toán rất kỹ, ông dùng kế dương đông kích tây để gây hoang mang cho địch. Trước nhất là cho một hải đội nhẹ tiến về phía Dutch Harbor (Dutch Harbor nằm trên một dãy đảo cô đơn phía Bắc giáp với biển Bering và gần Bắc Cực). Ngày 3 tháng 6, tức là một ngày trước khi khởi sự tiến đánh Midway, máy bay từ 2 tàu sân bay nhỏ sẽ ném bom Dutch Harbor để Hải quân Hoa Kỳ lầm tưởng rằng Nhật đang tiến chiếm những hải đảo vùng cực Bắc Thái bình dương, dĩ nhiên là họ sẽ để ý đến chiến trường mặt Bắc. Trong lúc ấy ở vùng cận Nam Thái bình dương, nơi đảo Saipan (Saipan nằm chung trong một quần đảo Mariana, trong đó có đảo Guam). 1 đoàn công voa vận chuyển 5000 lục quân cùng một tuần dương hạm nhẹ, một tàu chở dầu và được hộ tống bởi 4 tuần dương hạm nặng cùng tiến tới đảo Midway.
Sáng sớm ngày 29 tháng 05, tất cả phần còn lại của hạm đội liên hợp đều rời khỏi biển Nội Hải. Hải đội dẫn đầu nằm dưới sự chỉ huy của phó Đô đốc Nobutake Kondo. Một hải đội hùng hậu theo phía sau là lực lượng chính yếu gồm 34 chiến hạm nằm dưới sự chỉ huy của soái hạm Yamato, tức vị chỉ huy trưởng hạm đội liên hợp Yamamoto. Họ đang trên đường lao vào một chiến dịch đầy tham vọng, một chiến dịch được thai nghén từ một khối óc háo thắng của vị Đô Đốc huyền thoại đầy mưu mô Yamamoto. Số nhiên liệu chính là dầu được đổ vào dùng cho chiến dịch này còn nhiều hơn tổng số dầu mà Hải quân hoạt động cho cả năm trong thời bình.
Phó Đô đốc Nobutake Kondo

Trước đây, Nhật Bản đã từng chiến thắng oanh liệt những trận lớn cũng nhờ vào lối đánh bất ngờ, chiến dịch được trù liệu và bảo mật tối đa khiến cho kẻ địch là Anh và Mỹ bất ngờ, rơi vào thế bị động không kịp trở tay nên chịu thảm bại, nhưng bây giờ với kể từ trận San hô thì khác, Đô đốc Nimitz đã biết ý đồ của họ từ trước.
Kế hoạch đã vạch rõ: Lực lượng đột kích của Nagumo có nhiệm vụ quét sạch quân Mĩ ở Midway đồng thời tiêu diệt hạm đội Mĩ ở đây nếu chúng kéo đến. Tiếp đó, lực lượng đổ bộ sẽ đổ quân chiếm đóng đảo, xây dựng căn cứ không quân tại đây. Máy bay Nhật ở Midway sẽ làm nhiệm vụ "săn mồi" để đánh chìm mọi tàu địch di chuyển từ đông sang tây Thái Bình Dương, đem lại quyền khống chế đại dương này cho Nhật Bản.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề tranh cãi ngay trong cuộc họp cuối cùng của Bộ chỉ huy chiến dịch sáng 26 tháng 5. Phó đô đốc Kusaka, tham mưu trưởng lực lượng đột kích hỏi: 
"Nếu phát hiện được hạm đội Mĩ, chúng tôi sẽ tấn công chúng hay vẫn tiến đánh Midway trước?"
Phó đô đốc Matome Ugaki, tham mưu trưởng hạm đội Liên hợp và cũng là tham mưu trưởng chiến dịch quay về phía đô đốc Nagumo trả lời:
"Các ngài ở tuyến đầu và các ngài có thể căn cứ vào tình hình cụ thể để lựa chọn giải pháp tốt nhất."
Phó đô đốc Nobutake Kondo đề nghị lùi ngày hành quân lại để chuẩn bị kế hoạch cũng như diễn tập cho kĩ hơn nhưng Ugaki cũng bác bỏ ý kiến này. Ryunosuke Kusaka cho rằng ngày 6 tháng 6 là đêm cuối cùng có trăng, cần thiết cho sự đổ bộ, nếu dời lại sẽ phải đợi cả tháng sau.
Một nhược điểm lớn khác do các sĩ quan của đội tàu sân bay nêu lên. Đó là sự yếu kém về nhận và phát tin của các tàu sân bay.
Cột anten các tàu sân bay không được quá cao để máy bay hạ cánh dễ dàng, nên khó bắt được điện của hạm đội địch đánh đi Họ muốn tận dụng cột anten cao nhất của chiếc Yamato để có thể phát hiện được địch dễ dàng hơn. Họ cũng băn khoăn về vấn đề "im lặng vô tuyến" trong hành quân, vì sợ rằng sẽ khó thông báo tình hình địch cho nhau nếu chiếc Yamato đi sau tới 500 hải lý.
Phó đô đốc Nagumo hỏi: "Nếu không yểm trợ cho các tàu sân bay thì đoàn thiết giáp hạm sẽ làm nhiệm vụ gì trong cuộc hành quân này?" - Không có tiếng trả lời. Nhiều người đề nghị cho thiết giáp hạm Yamato đi theo đội tàu sân bay và đô đốc Yamamoto nên trực tiếp chỉ huy lực lượng đột kích. Nhưng ý kiến này cũng không được chấp thuận. Người ta hiểu rằng đô đốc Yamamoto muốn giữ nguyên một lực lượng dự bị lớn cho chiến dịch.
Hội nghị kết thúc và kế hoạch chiến dịch Midway chính thức có hiệu lực. Thời điểm tấn công đã được xác định: rạng sáng ngày 4 tháng 6 giờ Midway, tức ngày 5 tháng 6 giờ Tokyo.  
6 giờ sáng ngày 27 tháng 5, lực lượng đột kích của Nagumo nhổ neo rời căn cứ Hashirajima trên biển Nội Hải lên đường.
Ngày 28 tháng 5, Lực lượng đánh chiếm quần đảo Aleutian khởi hành từ căn cứ của nó ở cực Bắc đảo Kyushu. Nó sẽ phải tấn công sớm một ngày để thu hút sự chú ý của địch về phía đó.
Cùng ngày hôm đó, xa tít về phía Nam, lực lượng đổ bộ để chiếm đóng Midway xuất phát từ đảo Saipan thuộc quần đảo Marianas cũng lên đường để bắt kịp đoàn tàu của Nagumo.
Sáng sớm ngày 29 tháng 5, bộ phận còn lại của hạm đội Liên hợp rời căn cứ trên biển Nội Hải và hành quân theo đúng con đường mà Phó Đô đốc Nagumo đã đi qua 48 giờ trước.
Ngày 30 tháng 5, đang trên đường hành quân, Đô đốc Yamamoto nhận được những tin tức đáng lo ngại.
Theo đúng kế hoạch, 2 chiếc thủy phi cơ (loại 4 động cơ) Nhật Bản, từ đảo Kwajalein thuộc quần đảo Marshalls bay đi Trân Châu Cảng để tìm các tàu sân bay Mĩ. Trước khi bay đến Oahu, chúng phải đáp xuống bên bờ đảo san hô French Frigate để được tàu ngầm Nhật I.123 đợi sẵn ở đây tiếp tế nhiên liệu. Nhưng khi đến nơi quy định, thay vì gặp tàu ngầm đó, các phi công Nhật Bản lại trông thấy một tàu Mỹ đang tiếp dầu cho 2 thủy phi cơ. Thế tức là Mỹ đã bất ngờ chiếm đảo này và kế hoạch trinh sát hạm đội Hoa Kỳ của 2 thủy phi cơ Nhật đành hủy bỏ.
Cùng thời gian trên, một đoàn gồm 7 tàu ngầm Nhật Bản được lệnh làm thành một hàng rào án ngữ giữa Midway và Oahu để ngăn chặn các tàu sân bay Mỹ tiến từ Trân Châu Cảng về Midway. Không hiểu vì lí do gì mà các tàu ngầm đó đã không đến đúng vị trí quy định, và dĩ nhiên chúng không phát hiện được các tàu chiến Mỹ.
* Kế hoạch của Hoa Kỳ
Sau thất bại của "Chiến dịch MO", hải quân Nhật vẫn không biết rằng mật mã của mình đã bị bên địch nắm bắt nên vẫn tiếp tục sử dụng nó. Nhờ đó, đơn vị tình báo dã chiến của trung tá Joseph John Rochefort thuộc hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ đã đọc được 90% số điện văn mà hạm đội Liên hợp Nhật đánh đi kể từ ngày họ tìm ra chìa khóa mật mã Nhật cho đến khi hải quân Nhật thay mật mã mới. Tuy nhiên, Hoa Kỳ vẫn còn chưa xác định rõ mục tiêu "AF", một ẩn ngữ mà Nhật dùng để chỉ cho mục tiêu nào. Rochefort có đủ lý do để tin tưởng rằng "AF" chính là đảo Midway, trong khi những nhà tình báo chuyên môn ở Washington thì đồng cho là Oahu.
Ngày 20 tháng 5, chuẩn đô đốc Nimitz, tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ đã đến Midway để xem xét việc bố phòng. Midway được nhanh chóng tăng cường 16 máy bay ném bom của thủy quân lục chiến, 30 thủy phi cơ trinh sát, 18 pháo đài bay B-17 và 4 máy bay ném bom B-26.

Tổng cộng về không quân, Midway có hơn 120 máy bay các loại. Quân trú phòng tăng lên tới hơn 2.000 người được trang bị rất nhiều vũ khí phòng không.
Trên vùng biển quanh Midway, 20 tàu ngầm được bố trí thành 3 vòng tuần tra quanh đảo. Vòng trong cùng cách đảo 100 hải lí, vòng giữa cách 150 hải lí và vòng ngoài cùng cách đảo 200 hải lí.
Tất cả các lực lượng phòng thủ Midway đã ở trong tư thế sẵn sàng chiến đấu từ sáng ngày 3 tháng 6.

Biết trước ý định của Đô đốc Yamamoto, Nimitz chấp nhận giao chiến với hạm đội Nhật tại vùng biển Midway. Tại Trân Châu Cảng, ông điều động Lực lượng đặc nhiệm 16 do chuẩn đô đốc Raymond A. Spruance chỉ huy, gồm 2 tàu sân bay là chiếc USS Enterprise và chiếc USS Hornet, 5 tuần dương hạm nặng, 1 tuần dương hạm nhẹ và 11 khu trục hạm. ông cho gọi thêm Lực lượng đặc nhiệm 17 do chuẩn đô đốc Fletcher chỉ huy, gồm tàu sân bay Yorktown, 2 tuần dương hạm nặng và 6 khu trục hạm từ vùng biển San Hô trở về nhận nhiệm vụ mới.
Chiếc Yorktown vốn đã bị hư hại nặng trong trận hải chiến biển San Hô nhưng đã gắng sửa chữa nó để đưa vào phục vụ.

Trong vòng 72 giờ, chiếc Yorktown được biến từ tình trạng hỏng hoàn toàn thành một chiếc tàu sân bay (nếu có thể nói như vậy) hoạt động được. Đường băng trên boong của nó được chữa tạm, các bộ phận rầm trong bị bỏ đi và được thay thế, và nhiều phi đội mới (được chuyển từ chiếc tàu sân bay Saratoga sang) được đưa lên boong. Đô đốc Nimitz hoàn toàn không cần tới chiếc tàu sân bay thứ ba đang hoàn thành để đưa vào lực lượng của mình, những việc sửa chữa thậm chí còn tiếp tục khi chiếc Yorktown đã xuất kích. Chỉ ba ngày sau khi được đưa vào ụ tàu ở Trân Châu Cảng, chiếc tàu này đã lại có thể hoạt động, và đoàn thủy thủ của nó tấu lên bài "California, Here I come !".
Tàu sân bay Yorktown

Ngày 29 tháng 5 (theo giờ Hawaii, tức là một ngày sau khi lực lượng đột kích của Nagumo nhổ neo đi Midway), Lực lượng đặc nhiệm 16 rời Trân Châu Cảng di chiến đấu.
Ngày 31 tháng 5 (tức là một ngày sau khi đoàn chiến hạm của Yamamoto khởi hành), đến lượt Lục lượng đặc nhiệm 17 lên đường. Hai lực lượng đặc nhiệm đặt dưới sự chỉ huy chung của Fletcher.

9 giờ sáng ngày 3 tháng 6, chiếc thủy phi cơ Catalina của lực lượng phòng thủ Midway đã phát hiện từ xa đoàn hải vận hạm thuộc Lực lượng đổ bộ Nhật Bản đang trên đường tiến đến đảo. Nhận được tin này, cả Fletcher và Spruance đều hiểu rằng các tàu sân bay Nhật đã tiến đến rất gần, tuy chưa phát hiện được chúng. Buổi tối, các lực lượng Mỹ chỉ còn cách Midway 300 dặm về phía Đông-Bắc đảo. Họ quay mũi về phía Tây-Nam và nửa đêm hôm đó đã đến vị trí có thể chuẩn bị xuất phát tấn công hạm đội Nhật.
Gần như cùng một lúc với hạm đội Mỹ, Yamamoto và Nagumo đều nhận được tin báo rằng Lực lượng đổ bộ của Nhật đã bị máy bay Mỹ phát hiện, do tuần dương hạm nhẹ Jintsu, kì hạm của Lực lượng này, đánh đi. 5 giờ chiều, một đoàn 9 chiếc pháo đài bay B17 của Mĩ xuất phát từ đảo Midway bay đến oanh tạc Lực lượng đổ bộ Nhật, nhưng không gây thiệt hại đáng kể. Nhận tiếp tin này, Nagumo vẫn bình tĩnh vì lực lượng của ông chưa bị phát hiện, và cũng không có dấu hiệu nào cho thấy hạm đội Mĩ xuất hiện ở gần đây. Ông tiếp tục cho đoàn chiến hạm của mình đi suốt đêm theo đúng kế hoạch và rạng ngày hôm sau đã đến địa điểm cách Midway 200 dặm về phía Bắc. Lúc này, nếu Nagumo biết được rằng đoàn chiến hạm Mĩ thục sự đang ở đâu, hẳn ông có thể bị ngất xỉu: nó chỉ cách Lực lượng đột kích Midway bằng tàu sân bay của ông khoảng chừng 100 dặm.
* Chiến sự tại quần đảo Aleutian
Vào lúc 2 giờ chiều ngày 3-6-1942 (giờ địa phương), Lực lượng đặc nhiệm của chuẩn đô đốc Kakuta đã đến vị trí để phóng thủy phi cơ tiến đánh Dutch Harbor, thủ phủ quần đảo Aleutian. Lúc ấy, sương mù còn dày đặc, nhiệt kế chỉ -7 độ.
11 máy bay ném bom và 6 máy bay chiến đấu cất cánh từ tàu sân bay Junyo tiến về Dutch Harbor cách đó 180 hải lí. Mây thấp, trời xấu, họ chỉ bay ở độ cao 200m. Giữa đường, họ gặp thủy phi cơ Hoa Kỳ và nhanh chóng bắn hạ nó. Nhưng cuối cùng, không tìm ra mục tiêu, họ đành phải mang bom trở về.
Phi đoàn oanh tạc cơ xuất phát từ tàu sân bay Ryujo đến được mục tiêu, bắt đầu tấn công vào lúc 16 giờ 07 đánh phá đài phát thanh, kho nhiên liệu, một vài cơ sở quân sự. Hình ảnh họ chụp đem về, cho thấy Hoa Kỳ đã biến quân cảng này thành một trung tâm chiến lược lớn mà người Nhật không ngờ.
Vì vậy, qua ngày sau, buổi sáng, mặc dù thời tiết rất xấu, tầm nhìn hạn chế nhưng Kakuta cũng phóng ra một cuộc không kích thứ hai. Thành phần tham dự gồm 11 oanh tạc cơ bổ nhào, 6 oanh tạc cơ lớn, được yểm trợ bởi 9 chiến đấu cơ Zero. Họ hủy diệt những kho nhiên liệu, nhà kho, bến cảng và tàu vận chuyển. Lúc về, họ bị nhiều chiến đấu cơ P.40 Hoa Kỳ chặn đánh ở gần đảo Umnak nhưng 4 phi cơ Hoa Kỳ bị hạ. Nhật chỉ thiệt hại mất 1 chiến đấu cơ, 2 oanh tạc cơ.
Cuộc đổ bộ đang được chuẩn bị thì có lệnh của Yamamoto gọi về. Nhưng quân Nhật cũng nhanh chóng chiếm được các đảo Uttu và Kiska vào ngày 7 tháng 6. Lá cờ Mặt Trời còn phấp phới trên vùng giá lạnh này đến năm 1943.
* Hạm đội Nhật tiến công Midway
Không có sự hướng dẫn của hệ thống radar dẫn đường, đội xung kích Kido Butai của Chuichi Nagumo vẫn cứ lầm lũi tiến về phía trước trong màn sương mù dày đặc. Sang ngày thứ 2, tức 2/6 thì sương mù càng khủng khiếp hơn. Trên tàu sân bay Akagi, Nagumo và Kusaka nhìn nhau lo âu thấp thỏm. Sương giăng mù trời mặc dù giúp cho hạm đội tránh được phi cơ tuần thám của địch nhưng lại quá liều lĩnh. Di chuyển theo một đội hình quá gần nhau, không radar, không radio liên lạc như thế thì giống như nhiều người mù cùng chạy, sai lệch phương hướng hoặc xê dịch vận tốc một tí cũng đủ tự đâm cả vào nhau. Tướng Kusaka vẫn còn bực dọc vì hai cái mệnh lệnh quái ác mà thượng cấp của ông đã giao cho. Thứ nhất tấn công Midway ngày 04 tháng 06 để chuẩn bị cho cuộc đổ bộ chính thức hai ngày sau đó. Thứ nhì là tìm và diệt hạm đội của Nimitz. Ông bực tức tự hỏi phải làm thế nào để hoàn thành cả hai sứ mệnh trong một lúc? Sứ mệnh thứ hai nó quá nặng nề  nó đòi hỏi phải di chuyển tự do trong một vùng biển mênh mông nhưng phải giữ bí mật tuyệt đối. Nhưng nếu như họ đã tấn công Midway rồi thì sứ mệnh thứ hai khó lòng mà thực hiện được chứ nói gì đến thành công vì cơ mưu đã bị bại lộ và địch dĩ nhiên cũng phải biết phòng bị. Mệnh lệnh này thật quái đản nó giống như một anh chàng thợ săn đuổi theo hai con mồi cùng một lúc. Cũng ngay ngày hôm ấy toàn bộ mã số liên lạc của hạm đội liên hợp đều thay đổi khiến cho đại đội tình báo quân đội chuyên giãi mã của Trung úy Rochetford như những người mù. Tuy vậy nhưng không hề gì vì Nimitz đã biết quá đủ những tin tức cần biết rồi. Sáng hôm sau quân đồn trú ở Midway nhận được một bản báo cáo là cuộc tấn công sắp xảy ra. Thiếu úy Jack Reid, trong một phiên tuần thám quanh bầu trời Midway, chợt trông thấy xa xa phía dưới, nơi vùng biển phía Bắc Midway, một đoàn chiến hạm hùng hậu đang tiến đến.
Quả thực, đoàn chiến hạm vừa rồi cũng vừa phát giác ra sự hiện diện của một máy bay thám thính địch nên vội báo động về Nagumo ngay. Trên chiếc Akagi, Nagumo nhận được báo động nhưng ông lại làm ngơ đi trong khi mũi xung kích vẫn không hay biết gì cả. Và trên chiếc siêu thiết giáp hạm Yamato, Đô đốc Yamamoto Isoroku cùng những sĩ quan tham mưu của ông cũng không bao giờ tưởng tượng được rằng địch đã phát giác ra mình trước khi cho máy bay không kích Midway.
Tối đêm ấy hạm đội Nhật Bản tập trung lại vùng biển phía Tây Bắc cách Midway 200 dặm để chờ bình minh lên là phóng phi cơ tấn công. Trong khi Fletcher và Spruance thì đang nằm phía Đông Bắc cách Midway 300 dặm. Vừa đúng 19:50, Fletcher-người chỉ huy cả hai lực lượng đặc nhiệm ra lệnh cho hạm đội của mình hướng về phía Tây Nam. Ông tin chắc rằng ngày mai sẽ là một ngày rất quan trọng cho lịch sử của Hải quân Hoa Kỳ. Tờ mờ sáng ông đã có mặt ở ngay phía Bắc Midway, ngay đúng vị trí lý tưởng để tấn công vào mũi tiến công của địch. Tức là tàu sân bay Mỹ chỉ còn cách Kido Butai 100 dặm theo đường chim bay.
Đô đốc Spruance cũng cho những sĩ quan thuộc cấp của mình biết là cuộc chạm trán này phía địch quân có thể là một lực lượng rất hùng hậu, theo ước đoán thì có tới năm hoặc sáu tàu sân bay cùng tham chiến. Ông nói bằng một giọng quyết liệt hùng hồn "Này các bạn, hãy cùng nhau cố gắng chiến đấu, vì màu áo của binh chủng hải quân, vì màu cờ của quốc gia. Sự cống hiến của các bạn sẽ là những chiến thắng vẻ vang tô thêm nét son cho quân sử và vinh quang cho tổ quốc".
Một bản tin truyền khẩu từ hạm này sang hạm khác là những hiệu lệnh trao đổi của địch liên lạc đều bị chặn lại và giãi mã, Hải quân Hoa Kỳ đang giăng một cái bẫy để Nhật lọt vào và tiêu diệt. Tin đồn vô căn cứ ấy cứ lan ra khiến cho những thủy thủ từ những anh nấu bếp đến những chàng phi công chiến đấu ai ai cũng cảm thấy nao nức hâm hở chỉ muốn xông trận giết giặc lập công ngay.
2:45 sáng ngày 4-6-1942 (giờ Midway), trên soái hạm Akagi, tiếng kèn hiệu lệnh phát ra từ những loa phóng thanh vang vang trong gió. Những thủy thủ đang ngon giấc nồng bỗng bật dậy, tất bật lo nai nịt sẵn sàng. Không khí háo hức trước khi xông trận của những chàng phi công xôn xao cả một chiến hạm. Họ đều có chung một niềm hân hoan khó tả, hãnh diện để được đi vào khói lửa góp chút tài hèn để phụng sự nước non. Tiếng hoan hô vang dậy ngày nào sau chiến thắng lẫy lừng Trân châu cảng như vẫn còn vang vọng trong tim mỗi chàng phi công, khiến cho họ dù chưa tung mây lao vào chiến địa, dù trận mạc chưa khai mào nhưng vẫn nghĩ chiến thắng ngoạn mục này như cầm chắc ở trong tay. Cánh không quân trên các tàu sân bay ăn xong bữa ăn nhẹ với rượu Sake, cháo và sữa đậu nành đã sẵn sàng chờ giờ xuất kích, mặc dù mãi đến 5 giờ sáng mới có ánh sáng Mặt Trời. Lúc 4:30, khi các tàu sân bay Nhật còn cách Midway 240 dặm về phía Tây Bắc, máy bay của đợt tấn công thứ nhất được lệnh cất cánh: 36 oanh tạc cơ M97, 36 oanh tạc cơ bổ nhào M99 và 36 chiến đấu cơ Zero. Tổng cộng 108 máy bay dưới quyền chỉ huy của thiếu tá Joichi Tomonaga, anh hùng không quân trong chiến tranh Trung-Nhật, lao vào bầu trời đen kịt, tiến về Midway. Cùng xuất phát đợt đầu còn có 7 máy bay trinh sát bay về hướng Đông và Đông Nam để đi tìm hạm đội Hoa Kỳ.
Trong khi đó, 108 máy bay thuộc đợt thứ hai, gồm 36 oanh tạc cơ bổ nhào M99, 36 máy bay phóng ngư lôi M97 và 36 chiến đấu cơ Zero dưới quyền chỉ huy của trung tá Egusa, người đã từng đánh chìm tàu sân bay Hermes của Anh tại Ấn Độ Dương, chờ đợi giờ xuất kích. Mặc dù không tin là có các tàu sân bay Mỹ ở gần đây, cả Nagumo và Kusaka đều nhất trí là vẫn nên thận trọng. Họ dành sẵn 37 máy bay phóng ngư lôi trên boong chiếc Akagi và chiếc Kaga để đối phó với các tàu sân bay Mỹ nếu phát hiện được chúng.
Fuchida lúc này đã là đại tá, người chỉ huy phi đội không kích Trân Châu Cảng bây giờ cũng tưởng là sẽ được lãnh một nhiệm vụ tương tự ở Midway . Ông phải vào nằm trong một bệnh xá dưới hạm vì chứng đau ruột thừa đã hành hạ mình mấy hôm. Bên cạnh Fuchida, trên một cánh võng đong đưa, một người bạn chiến đấu sinh tử với Fuchida là Minora Genda. Ông cũng bị cảm nặng và đang nằm co rúm trong bộ đồ pyjama. Vừa nghe tiếng loa phóng thanh vang lên ầm ĩ kêu gọi thủy thủ đoàn tập trung chuẩn bị xông trận thì Genda lật đật bật dậy, vẫn trong bộ đồ ngủ, ông cố lê bước đến bên chiếc cầu chỉ huy và xin lỗi với Nagumo về sự chậm trễ của mình. Genda lại quả quyết với vị Đô đốc chỉ huy của mình là sức khỏe của ông không hề gì có thể đảm đương trọng trách, cá nhân ông sẽ chỉ huy phi đội tấn công đầu tiên. Nagumo tỏ ra trìu mến choàng tay qua vai của viên sĩ quan thuộc cấp quả cảm. Những người hiện có mặt trên cầu chỉ huy cũng cảm thấy xúc động vô cùng.
4 tàu sân bay bây giờ đang di chuyển cùng một lộ trình tại hướng Tây Bắc cách đảo Midway 240 dặm. Genda ra lệnh chuẩn bị cho cuộc không tập đầu tiên. Lúc 4:30 sáng, Kusaka vừa phát lệnh phóng phi cơ thì bỗng thình lình Fuchida xuất hiện. Dù đang mang trọng bệnh trong người nhưng giờ phút thiêng liêng này không được tận mắt chứng kiến cảnh hào hùng của những chiến sĩ thuộc cấp của mình, Fuchida không thể nào chịu đựng được nên phải cố leo lên cầu chỉ huy, trước để xem cảnh tượng huyên náo và sau là tò mò muốn xem cho biết ai sẽ người chỉ huy thay thế mình.
Đầu tiên là Trung úy trẻ Tomonaga trên chiếc Hiryu dẫn đầu phi đội Zero lăn bánh xếp thành hàng trên phi đạo. Cờ hiệu vừa rung lên thì tiếng động cơ của phi đội đồng loạt rầm rú vang trời, từng chiếc tiêm kích Zero rời phi đạo lao vào trong bóng đêm để lại phía dưới tàu sân bay Hiryu tiếng hoan hô cổ vũ của đồng đội vang vọng một góc trời.
Trong vòng 15 phút, 4 tàu sân bay trở lại với bầu không khí im lặng như lúc ban đầu. Họ vừa tung lên không trung 108 phi cơ đủ loại, từ phía dưới sàn tàu, những đôi mắt hân hoan cứ dán theo những ánh lửa lập lòe từ những chiếc đèn của thân phi cơ kéo thành một chuỗi dài dệt thành một đường đỏ thẩm trên nền trời đen đặc từ từ hướng về phía Midway.
Ngay sau đó , Genda ra lệnh cho 7 máy bay thám thính mở rộng vòng kiểm soát ở hướng Đông và Đông Nam để truy tìm tung tích của các tàu sân bay Mỹ. 5 chiếc theo lệnh đã ra đi nhưng còn hai chiếc không thể cất lên được vì hệ thống phóng phi cơ trên tuần dương hạm nặng Tone bị trục trặc. Tướng Kusaka định bảo với Genda nên tiếp tục phóng thêm nhiều phi cơ thám thính nữa nhưng không biết nghĩ sao ông lại im lặng.
Nhưng không may người Mỹ lại phát hiện ra các tàu sân bay Nhật trước. Lúc 5:25, ẩn hiện giữa mây và ánh bình minh nhợt nhạt, chiếc thủy phi cơ Catalina từ Midway bay đến đã lượn vòng bên trên Lực lượng đột kích của Nagumo. Qua vô tuyến điện, viên phi công đã thông báo cụ thể vị trí các tàu sân bay Nhật. Nhận được tin này, đô đốc Fletcher không vội cho tấn công ngay. Ông chờ những tin tức rõ ràng hơn, và thời điểm thuận lợi nhất.
Tại Midway, 25 phút sau khi nhận được tin trên, bộ chỉ huy Mỹ lại phát hiện qua màn ảnh radar một đoàn máy bay Nhật kéo đến. Họ lập tức ra lệnh báo động chiến đấu và cho 6 máy bay phóng ngư lôi kiểu Avenger của hải quân cùng 4 chiếc B26 kiểu Marauder của lục quân cũng mang theo ngư lôi đi tấn công các tàu sân bay, đồng thời 25 chiến đấu cơ của hải quân xuất kích đánh chặn các máy bay địch đang tiến tới Midway.
Hệ thống radar ở đảo Midway đã phát giác phi đội tấn công đầu tiên của Nhật vào lúc 5 giờ 50. Còi báo động hú vang lẫn trong tiếng phi công chạy toán loạn gọi nhau ơi ới. Rồi những phi cơ thuộc toán phòng thủ vội vã về phi đạo, rầm rộ chuyển mình cất cánh, lao vào không trung tiến về phía trước đón ngăn bước địch .
Tiếp đó nhiều phi đoàn khác cũng lần lượt cất cánh đi đánh hạm đội Nhật. Đoàn máy bay Nhật thuộc đợt tấn công đầu tiên đến Midway vào lúc 6:35 và đã có sẵn máy bay Mĩ đón tiếp nghĩa là yếu tố bất ngờ không còn nữa. 36 chiến đấu cơ Zero lao vào chiến đấu mãnh liệt với 25 chiến đấu cơ của hải quân Hoa Kỳ.Trận chiến tận trên giữa tầng mây này nếu chỉ nhìn sơ cũng có thể dễ dàng đoán ra được kẻ thắng người bại. Phi đội Nhật Bản với những chiến đấu cơ Zero nhanh nhẹn và hỏa lực ghê gớm cùng những phi công gan dạ cảm tử, hơn nữa họ là một phi đội thuần nhất và được hộ tống rất kỹ. Trong khi ấy phi đội của Mỹ thì cũ kỹ lỗi thời lại tạp nham chẳng có hộ tống gì hết, vừa lâm trận lại bị địch quân dùng số đông áp đảo xử dụng lối xa luân chiến khiến cho họ phải rơi vào thế bị động hoàn toàn. Không bao lâu thì đã có đến 15 máy bay bị bắn rơi, phi đội Nhật sau trận tàn sát ấy lại lao thẳng vào mục tiêu chính là Midway. Các máy bay ném bom Nhật băng qua lưới lửa phòng không Hoa Kỳ trút bom xuống các căn cứ không quân, phá kho, bãi, hệ thống tiếp tế, các bồn chứa dầu, nhà chứa máy bay... Sau 20 phút oanh tạc, các máy bay Nhật lần lượt quay trở về, để lại nhiều đám cháy vẫn còn bốc cao trên cả hai hòn đảo Midway là Sand và Eastern. Riêng phi đoàn trưởng Tomonaga còn nán lại một lúc để xác định kết quả.
Đoàn máy bay Nhật chỉ bị thiệt hại nhẹ, 4 oanh tạc cơ bị hỏa lực phòng không hạ và 2 chiến đấu cơ bị máy bay Mỹ bắn rơi, nhưng mục tiêu chính là tiêu diệt máy bay của Midway thì lại không đạt được. Tomonaga đã thấy rõ nhiều tốp máy bay ném bom Mĩ vẫn tiếp tục cất cánh bay về phía hạm đội Nhật. Vì vậy lúc 7 giờ, ông điện về cho Nagumo: "Cần có thêm đợt tấn công thứ hai". Vừa nhận được tin và chưa kịp xử trí, Nagumo bỗng thấy một khu trục hạm của ông dùng cờ đánh đi tín hiệu "có máy bay địch!".
Phi đội này gồm 4 chiếc Marauders và 6 chiếc Avenger cũ kỹ lỗi thời có trang bị thủy lôi đang nặng nề ì ạch tiến về phía hạm đội xung kích Kido Butai. Tức thì phía Nhật Bản, chiến đấu cơ Zero nhanh chóng lao lên tạo thành cái dù bảo vệ tàu sân bay và tiến về phía phi cơ địch ngăn cản. Thế là trận không chiến bắt đầu. Người ta dù chưa biết chuyện gì sẽ xảy ra nhưng kết quả của nó cũng thật là dễ đoán.  Trận chiến vừa khai màn thì đã có 3 chiếc bị chiến đấu cơ Zero của Nhật bắn hạ. Phòng không từ những tuần dương hạm và khu trục hạm cũng vừa gửi lời chào vĩnh biệt đến 2 chiếc nữa. Còn lại 5 chiếc hốt hoảng nhưng họ lại không tháo chạy, 3 trong 5 chiếc còn lại vốn là những chàng phi công gan lì. Không biết bằng cố gắng nào đó mà họ đã vượt xa sức chịu đựng của con người, dù đạn phòng không đan kín bầu trời và chiến đấu cơ Zero của địch cứ bám riết như bóng với hình nhưng 3 chiếc máy bay Mỹ vẫn cứ len lỏi và tiến thẳng về phía Akagi. Khi vừa tầm thủy lôi, họ cho phóng ngay 3 trái thủy lôi quyết tiêu diệt tàu sân bay cho bằng được. Nhưng có lẽ số của Nagumo chưa tuyệt diệt trên vùng biển này nên chiếc soái hạm lúc ấy bỗng dưng đổi hướng, kết quả là 3 trái thủy lôi mà 3 phi công của Mỹ liều chết để phóng đã trở thành công cốc, nó đi trượt ra ngoài không gây thiệt hại gì cho Akagi cả. Trên các tàu sân bay Nhật, các phi cơ oanh tạc đợt thứ nhất đang trở về lần lượt đáp xuống để tiếp nhiên liệu. Họ được thủy thủ đoàn chào đón bằng những tiếng tung hô vang dậy, vì đã được chính mắt mục kích trận không chiến ngoạn mục vừa rồi, thấy phi công của mình tung hoành bắn rơi máy bay Mỹ dễ như bắn chim nên họ thảy đều phấn khích.
Cuộc tấn công này cùng với điện tín của Tomonaga khiến Nagumo nghĩ rằng lực lượng không quân Mỹ ở Midway là nguy cơ chính, chứ không phải các tàu sân bay địch mà đến lúc này vẫn chưa hề thấy xuất hiện. Quyết định đưa nốt 37 máy bay phóng ngư lôi dự trữ vào tăng cường cho lực lượng tấn công Midway đợt 2, ông ra lệnh thay ngư lôi bằng bom cho các máy bay này để đánh các sân bay trên đảo. Công việc này mất độ 1 giờ, nhưng người ta đã không kịp hoàn thành nó. Lúc 7 giờ 28 phút, một máy bay trinh sát Nhật điện về một tin làm Nagumo và bộ tham mưu của ông bàng hoàng: "Phát hiện 10 tàu địch cách Midway 240 dặm về phía Bắc". Câu hỏi ám ảnh mọi người trong suốt cuộc hành quân, giờ đây đã được thực tế đặt ra và buộc phải trả lời dứt khoát: Tiếp tục đánh Midway hay chuyển sang đánh hạm đội địch? Nếu trong đoàn chiến hạm Mĩ không có tàu sân bay, thì vẫn có thể tiến đánh Midway rồi quay lại đối phó với chúng. Nhưng nếu có 1 tàu sân bay trong đó, thì máy bay của nó sẽ có thể tấn công đoàn tàu Nhật ngay trong lúc chưa hoàn tất việc thay ngư lôi bằng bom cho máy bay, tức là trong lúc rất nguy hiểm. Để tránh tình trạng trên, và để sẵn sàng tấn công hạm đội địch, Nagumo ra lệnh chấm dứt việc thay ngư lôi bằng bom và lắp lại như cũ những ngư lôi nào đã được tháo ra khỏi máy bay. Tiếp đó, Kusaka yêu cầu máy bay trinh sát xác định rõ loại hình tàu địch. Vài khu trục cơ cất cánh vội vàng để bảo vệ bên trên đoàn máy bay đợt 2 trở về. Các máy bay này có trách nhiệm che chở cho một công việc hết sức nguy hiểm là sự tiếp nhận trên các tàu sân bay đang chứa đầy máy bay trong hầm ngay khi thay đổi bom và thủy lôi. Đã trải qua nhiều trận đánh và cũng được huấn luyện kỹ càng khiến cho các thủy thủ chu toàn công việc không gây một trở ngại nào.
Đây là lần đầu tiên kể từ trận không kích thành công ở Trân Châu Cảng, thần may mắn đã ngoảnh mặt với Người dân xứ Phù Tang, nếu bệ phóng thủy phi cơ của tuần dương hạm Tone không bị trục trặc và phi cơ đã phóng lên đúng như mệnh lệnh của Genda thì họ đã phát giác ra hạm đội địch trước khi Nagumo ra lệnh cho thay đổi loại bom oanh tạc và giờ này chắc cũng đang hiên ngang trên đường tiến về phía 3 tàu sân bay Enterprise, Hornet và Yorktown để tấn công rồi.
Chỉ vài phút sau, 16 máy bay Mĩ lại ập đến tấn công Lực lượng đột kích Nhật. Đây là phi đội máy bay ném bom bổ nhào của thiếu tá Lofton Henderson thuộc thủy quân lục chiến Mỹ cất cánh từ Midway lúc sáng sớm, ít phút sau khi có lệnh báo động. Các chiến đấu cơ Zero từ các tàu sân bay vội vã lao lên đánh chặn. Các phi công Mỹ tập trung đánh tàu sân bay Hiryu, nhưng do thiếu kinh nghiệm, họ thả bom không trúng đích. Sau khi mất 8/16 số máy bay, phi đoàn Henderson buộc phải quay về căn cứ.
Lúc 8:09, Nagumo và bộ tham mưu của ông cảm thấy nhẹ người khi nhận được tin do máy bay trinh sát điện về: trong số 10 tàu địch, có 5 chiếc là tuần dương hạm và 5 chiếc kia là khu trục hạm. Nhưng họ không có thời gian để mừng. Từ độ cao trên 6000m, 15 pháo đài bay B17 của Hoa Kỳ trút bom xuống các tàu sân bay Nhật. Họ rời Midway lúc trời chưa sáng mục đích để truy tìm và tiêu diệt những dương vận hạm chuyển quân, nhưng vô tình lại phát giác ra những tàu sân bay đang nằm phơi mình dưới ánh nắng bình minh, những mục tiêu hấp dẫn như thế này thì làm sao họ không lao ngay vào tấn công cho được. Những sĩ quan phi hành đoàn nhìn những quả bom to đùng của mình đuôi nối đuôi rơi thẳng xuống giữa vùng biển đầy chiến hạm địch rồi gọi radio báo cáo đại về chỉ huy rằng phi đội của mình đã đánh trúng 4 chiến hạm của địch. Thực tế thì chẳng có trái bom nào trúng đích cả.
Chỉ trong một khoảng thời gian rất ngắn mà hạm đội xung kích của Nhật đã bị phi cơ Hoa Kỳ tấn công những ba lần, thủy lôi có, bom và bổ nhào có, bom thả từ trên cao độ có nhưng trượt cả. Kusaka ngẫm nghĩ và cười một mình "Hừm, quân đội Mỹ xung trận mà đánh đấm dở như vậy thì ở nhà nấu cơm cho vợ ăn có lẽ còn anh hùng hơn".
Sau ba lần đụng độ với không lực Mỹ ở Midway, Nagumo và bộ tham mưu của ông nhận thấy lực lượng này không đáng sợ. Nhưng đến 8:20 họ lại phải lo âu khi nhận được tin điện, vẫn của chiếc máy bay trinh sát nói trên: dường như có một tàu sân bay đi theo đoàn chiến hạm Mỹ. Vào lúc 8:30: "phát hiện thêm 2 tuần dương hạm địch". Đa số trong bộ tham mưu không tin rằng tàu sân bay Mỹ đã xuất hiện: nếu có, nó đã cho máy bay tấn công chúng ta từ lâu.
Nhung Kusaka tin là có: một đoàn chiến hạm lớn như vậy không thể không có tàu sân bay. Kusaka muốn tiến đánh hạm đội Mỹ ngay, nhưng còn băn khoăn về phi đoàn tiến đánh Midway đang trên đường quay trở về. Họ sẽ hết nhiên liệu và không tìm được tàu mẹ để hạ cánh nếu các tàu sân bay di chuyển. Ông hỏi ý kiến trung tá Genda, và viên sĩ quan trẻ tuổi nhưng đầy uy tín này đề nghị chờ các máy bay của Tomonaga trở về. Kusaka liền báo cáo dự định của ông với Nagumo: tấn công hạm đội địch sau khi phi đoàn Tomonaga đã trở về. Nagumo chấp thuận.
9:18, khi chiếc máy bay cuối cùng đáp xuống đường băng tàu sân bay, Lực lượng đột kích của Nagumo từ hướng Đông Nam quay mũi về hướng Bắc - Đông Bắc đi tìm diệt hạm đội Hoa Kỳ trong một trận quyết định mà họ hằng mong đợi.
Sau khi đã xác định rõ ràng vị trí của Lực lượng đột kích bằng tàu sân bay Nhật Bản, Fletcher yêu cầu Spruance tấn công ngay khi lực lượng đặc nhiệm 16 tới địa điểm thuận lợi. Tham mưu trưởng của Spruance là đại tá Miles Browning cũng đề nghị tấn công sớm để phối hợp với không quân ở Midway chia cắt lực lượng Nhật. Tán thành quan điểm đó, Spruance còn táo bạo quyết định đưa toàn bộ máy bay của ông vào tấn công cùng một lúc để diệt địch trong một đòn mãnh liệt bất ngờ.
7:02, khi Lực lượng đặc nhiệm 16 dùng lại cách mục tiêu khoảng 100 dặm, cả hai tàu sân bay Enterprise và Hornet đã phóng đi tất cả các máy bay của chúng, ngoại trừ các thủy phi cơ trinh sát. 67 máy bay ném bom bổ nhào, 20 chiến đấu cơ và 29 máy bay phóng ngư lôi lao về hướng Tây - Tây Nam. Phi đoàn xuất phát từ chiếc Hornet đã đến mục tiêu trước hết nhưng không phát hiện được đoàn chiến hạm Nhật. Các chiến đấu cơ và các máy bay ném bom bổ nhào do trung tá Stanhope Ring chỉ huy liền ngoặt về hướng Đông Nam để truy tìm địch trên đường tiến tới Midway. Riêng phi đội máy bay phóng ngư lôi gồm 15 chiếc do trung tá John Waldron chỉ huy không bay theo hướng đó. Căn cứ vào vết tích còn lại của luồng nước do các chiến hạm di chuyển tạo ra, vị trung tá có dòng máu lai da đỏ này ngoặt về phía Đông để tìm địch. Cũng phải mất rất nhiều thời gian Waldron mới phát hiện được đoàn chiến hạm khổng lồ với 4 tàu sân bay Nhật. Vừa lúc đó, gần ba chục chiến đấu cơ Zero lao lên đánh chặn. Mặc dù không có chiến đấu cơ yểm trợ, Waldron dẫn phi đội của mình lăn xả vào đánh các tàu sân bay Nhật. Nhưng máy bay của ông đã bị bắn rơi cùng với hầu hết phi đội của mình, trước khi có thể phóng được ngư lôi. Chỉ có một chiếc thoát khỏi vòng vây của chiến đấu cơ Nhật Bản.
Nhưng chỉ vài phút sau, một phi đội gồm 14 máy bay phóng ngư lôi Mỹ lại ập đến. Đây cũng là phi đội duy nhất trong đoàn máy bay xuất phát từ tàu Enterprise tìm được mục tiêu và lao vào tấn công mà không có chiến đấu cơ yểm trợ.Thêm 10 chiếc bị bắn rơi, 4 chiếc còn lại bị thương nhưng vẫn phóng được ngư lôi trước khi tháo chạy.
Lại thêm một đoàn máy bay Mỹ nữa lao tới hạm đội Nhật. Lần này là các máy bay thuộc tàu sân bay Yorktown của Lực lượng đặc nhiệm 17. Mãi đến 9:06, Fletcher mới cho các máy bay của ông cất cánh đợt đầu, gồm 12 máy bay phóng ngư lôi, 6 chiến đấu cơ và 17 máy bay ném bom bổ nhào. Không mất thời gian để tìm kiếm mục tiêu, phi đội máy bay phóng ngư lôi được 6 chiến đấu cơ yểm trợ bay thẳng tới đoàn chiến hạm Nhật. Các chiến đấu cơ Mỹ lập tức sa vào vòng vây của các máy bay Zero trong khi đó 12 máy bay phóng ngư lôi băng qua lửa đạn phòng không dày đặc của các chiến hạm Nhật để đánh các tàu sân bay. 14 quả ngư lôi đã được phóng đi, nhưng không kết quả vì trượt mục tiêu hoặc các tàu Nhật tránh né được.Một máy bay Mỹ vừa bị trúng đạn, viên phi công kém may mắn trong giờ phút cuối cùng của cuộc đời lại tỏ bình tĩnh vô cùng, anh ta khéo léo điều khiển chiếc phi cơ lâm nạn của mình lao thẳng vào soái hạm Akagi theo chiến lược kamikaze của người Nhật. Lúc ấy Tướng Kusaka đang đứng trong tháp chỉ huy, ông đưa mắt nhìn lên theo tiếng gầm rú vang trời của chiếc phi cơ mất thăng bằng đang lao vút về phía mình. Và may mắn cho ông, chiếc máy bay chỉ lướt qua đầu ông không quá 10 thước rồi lao thẳng xuống biển. Các máy bay Mỹ liên tiếp bị bắn rơi xuống biển hoặc nổ tan trên không, chỉ còn 2 chiếc quay trở về.
Sau khi đập tan 3 đợt tấn công của máy bay xuất phát từ tàu sân bay Mỹ, Lực lượng đột kích của Nagumo đã tiêu diệt 35 trong tổng số 41 máy bay phóng ngư lôi và bắn rơi 6 chiến đấu cơ địch. Con số đó bằng 2/3 tổng số máy bay mà một tàu sân bay có thể mang theo. Do đó, Nagumo cho rằng địch chưa thể mở ngay một đợt tấn công mới. Lúc 10 giờ, ông hạ lệnh chuẩn bị chuyển sang tấn công. Trên cả 4 tàu sân bay, toàn bộ máy bay phóng ngư lôi được đưa lên boong trước, đúng xếp hàng cùng các chiến đấu cơ đang được tiếp thêm dầu. Các tàu sân bay quay mũi ngược chiều gió để chuẩn bị cho máy bay cất cánh.
Đúng lúc đó, một đoàn gồm 37 máy bay ném bom bổ nhào Mỹ do trung tá Clarence Maclusky chỉ huy ngày càng tiến đến gần. Phi đội này cất cánh từ tàu sân bay Enterprise lúc sáng, bay về phía Nam đến gần Midway vẫn không thấy hạm đội Nhật, lại quay về phía Bắc. Lần theo vệt nước do một chiến hạm chạy về phía Đông Bắc tạo ra, Maclusky đã phát hiện ra đoàn chiến hạm Nhật lúc 10 giờ 20 phút. Từ độ cao 6.000 mét tiếp cận mục tiêu, Maclusky không thấy máy bay Nhật bay lên chặn đánh. Chọn 2 tàu sân bay chạy song song ở phía trước để đánh ông chia lực lượng của mình ra làm hai và hạ lệnh tấn công. Các máy bay Mỹ bổ nhào xuống mục tiêu. Súng phòng không bắn lên, nhưng đã muộn, từ trên cao độ, Gallaher nghe tiếng Trung úy gọi tên mình và ra lệnh "Theo tôi", sau đó chiếc phi cơ của MacCluky chúi mũi lao thẳng xuống tàu sân bay Kaga, không chậm trễ, Gallaher cũng lao sát theo sau. Đến một khoảng cách gần, anh ta nhìn thấy hình vẽ lá đại kỳ mặt trời mọc trên sàn tàu. Viên trung úy trẻ này là người đã thoát chết trong trận Trân Châu Cảng, sau khi chứng kiến chiếc hạm Arizona bị đánh bật ngửa nằm ngay bãi biển mà lòng cay đắng. Anh ta bấm nút thả bom ở độ cao 550 m và đưa mắt theo dõi quả bom nặng nề lao thẳng xuống Một ánh lửa lóe lên ngay sàn tàu, rồi thêm một ánh lửa khác cũng cùng một mục tiêu. Quả bom ấy do Trung úy McClusky cũng vừa thả xuống. Kaga nổ tung từ buồng lái đến mũi tàu. Các máy bay trên boong cũng nối tiếp nhau nổ tan tành. Chỉ sau 2 phút chiếc Kaga ngập chìm trong lửa.
Trên đài chỉ huy của chiếc Akagi, Nagumo và Kusaka đứng thất thần nhìn lửa thiêu chiếc Kaga và toàn bộ máy bay của nó, quên mất rằng bom cũng đang rơi ngay trên đầu mình. Chỉ một phút đồng hồ sau khi Kaga phát nổ thì đã có thêm một trái bom nữa cũng đánh trúng vào mép soái hạm Akagi. Ngọn lửa trên chiếc Akagi bắt đầu cháy lan ra, khói tỏa cả một vùng biển rộng. Trên chiếc tàu sân bay thảm thương ấy, Tướng Kusaka đứng sững sờ, ông không ngờ những khu trục cơ cũng có thể gây thiệt hại cho chiến hạm của mình. Ngay giữa lúc còn bàng hoàng suy tính thì lại có tiếng xé gió thật to bên tai ông, bất thần ông ngước nhìn lên phía trên thì thấy 1 quả bom to đùng đang lao thẳng xuống. Quả bom chết tiệt ấy đánh trúng vào giữa hàng phi cơ chuẩn bị cất cánh. Một tiếng nổ kinh thiên động địa khiến cho toàn thân Akagi rung lên bần bật như vừa trải qua một cơn địa chấn.
Những máy bay chưa cất cánh bị bắt lửa cháy rực, tiếp theo là tiếng bom và thủy lôi cũng bắt lửa nổ liên tục. Rồi ngọn lửa ngùn ngụt ấy lại liếm dần vào hầm chứa dầu và đạn dược. Lại thêm nhiều tiếng nổ khác vang lên, toàn thân soái hạm Akagi run lên từng chập như căn nhà tranh trước gió. Nagumo không chịu rời tàu trong khi đài chỉ huy bắt đầu bốc cháy. Kusaka cố thuyết phục nhưng Nagumo từ chối và muốn ở lại chìm cùng Akagi xong bị Kusaka phá cửa sổ đẩy ông ra ngoài rồi dòng dây cho tư lệnh Lực lượng đột kích tụt xuống xuồng cứu nạn. Kusaka cũng xuống xuồng bằng sợi dây ấy và đưa Nagumo sang chiếc tuần dương hạm Nagara để tiếp tục chỉ huy. Chỉ còn riêng hạm trưởng Aoki thì xin được đi theo số mệnh của chiếc tàu sân bay huyền thoại nhưng không được phép.
Khói lửa bốc cao trên hai tàu sân bay bị phá hủy đã dẫn đường cho phi đội máy bay ném bom bổ nhào gồm 17 chiếc do trung tá Maxwell Leslie chỉ huy. Xuất phát từ tàu sân bay Yorktown và đang bay chệch mục tiêu về hướng Đông Nam, họ bỗng trông thấy khói ở chân trời phía Tây Bắc. Cả đoàn ngoặt ngay về phía đó. Leslie dẫn đầu rồi lần lượt đến các máy bay khác lao xuống trút bom vào 1 trong 2 tàu sân bay mà họ thoáng thấy qua lớp mây mờ.
Trung úy Bob, chỉ huy trưởng phi đội dẫn đầu xé mây nhắm tàu sân bay Soryu lao vút xuống. Chỉ thấy 4 chiếc máy bay như 4 cái bóng mờ chúi xuống thật nhanh rồi lao vút lên, bốn quả bom dội vào cùng một lúc khiến chiếc Soryu chỉ trong phút chốc đã biến thành một biển lửa. Nhưng hành động của 4 phi công  dù sao cũng không qua khỏi được định mệnh, 3 trong 4 chiếc phi cơ cảm tử trút bom xong vừa mới cất lên đã bị đạn phòng không địch bắn rơi ngay sau đó. Bị trúng cả một loạt bom, tàu sân bay Soryu bốc cháy, ngập nước và chìm dần. Lúc này đã là 10:45, trước tình trạng tồi tệ của Soryu, hạm trưởng Ryusaku Yanagimoto ra lệnh cho thủy thủ đoàn lập tức rời tàu, còn riêng ông thì trở lại cầu chỉ huy, tay cầm thanh Katana mắt hướng về phía lá cờ mặt trời  vẫn còn bay phấp phới trên cột cờ và miệng hát bài quốc ca-bài Kimi Ga Yo. Ông quyết định ở lại cùng chết theo Soryu.
Sau 20 phút oanh tạc của 54 máy bay ném bom Mỹ, Nagumo mất 3 trong số 4 tàu sân bay của ông. Đến lúc ấy, tàu sân bay Hiryu mới có thể cho máy bay cất cánh. Chỉ huy trưởng đội tàu Soryu - Hiryu là chuẩn đô đốc Tamon Yamaguchi hiểu rõ rằng nếu muốn sống sót, chiếc tàu sân bay còn lại của ông phải diệt bằng được tàu sân bay địch, trước khi bị nó tấn công. Vì vậy dù chưa biết rõ số lượng và vị trí tàu sân bay địch, ông vẫn hạ lệnh tấn công. Lúc 10:40 sáng, 6 chiến đấu cơ và 18 máy bay ném bom bổ nhào đã cất cánh từ đường băng chiếc Hiryu đi tìm tàu sân bay Mỹ. Rất may cho những máy bay Nhật, phi đội oanh tạc cơ của Trung úy Leslie sau khi đánh tơi bời 3 chiếc tàu sân bay của Nhật, một số bị bắn rơi, số sống sót còn lại thì ca khúc khải hoàn đắc thắng hồi dinh. Không ngờ trên đoạn đường quay về tàu sân bay Yorktown họ lại là kẻ hướng đạo dẫn theo một phi đội của kẻ thù tìm ra soái hạm của Fletcher. đoàn máy bay Nhật bắt gặp tàu sân bay Yorktown giữa đội hình Lực lượng đặc nhiệm 17 ở phía sau đoàn tàu của Spruance 15 dặm.
Nhờ radar của tàu sân bay phát hiện địch từ xa 40 km, Fletcher đã kịp thời cho các chiến đấu cơ bay lên chặn đánh phối hợp với một hỏa lực phòng không mãnh liệt. Nhưng với ý chí phục thù của các võ sĩ đạo, các phi công Nhật đã cho máy bay lăn xả vào mục tiêu mà ném bom cho bằng được chiếc Yorktown. 16 máy bay Nhật bị hạ, chỉ còn 5 oanh tạc cơ và 3 chiến đấu cơ quay trở về. Nhưng chiếc tàu sân bay USS Yorktown đã bị trúng 3 trái bom và bị 3 máy bay cảm tử đâm vào làm hỏng 2 nồi hơi và bốc cháy lúc 12:30 phút. Sau 1 giờ, đám cháy được dập tắt, nhưng 10 máy bay phóng ngư lôi cùng 6 chiến đấu cơ khác của chiếc Hiryu lại ập đến. Trong lúc chiến đấu cơ đôi bên giao tranh ác liệt, các máy bay phóng ngư lôi Nhật bất chấp hỏa lực phòng không đã phóng 2 quả trúng tàu sân bay. Bằng một cố gắng vượt hơn cả sức người thì dù có đến hơi thở cuối cùng người Nhật cũng phải đạt cho kỳ được cái ước mơ của họ, đó là phải đánh chìm cho được tàu sân bay địch để rửa hận cho Akagi, Kaga và Soryu. Bị thương nặng, chiếc Yorktown nghiêng hẳn một bên.
Lúc 3 giờ chiều, hạm trưởng Elliott Buckmaster hạ lệnh rời tàu. Chuẩn đô đốc Fletcher rời bộ chỉ huy của ông qua tuần dương hạm Astona. Vài giờ sau, chiếc tàu ngầm I-168 của Nhật do trung tá Yahachi Tanabe chỉ huy đã phát hiện được tàu sân bay bị thương Yorktown. Nó phóng thêm 2 quả ngư lôi vào tàu sân bay này và 1 quả vào khu trục hạm Hammann ở gần đó. Chiếc khu trục hạm chìm sau 4 phút, còn tàu sân bay thì tới lúc đó mới bắt đầu chìm dần.
Trong lúc Fletcher giao chiến với máy bay Nhật thì Spruance khẩn trương tiếp dầu và nạp vũ khí cho các máy bay vừa đi chiến đấu trở về. Mọi việc vừa hoàn tất, ông hạ lệnh tấn công chiếc Hiryu-tàu sân bay cuối cùng của đoàn chiến hạm Nhật.
11 oanh tạc cơ mang bom 45 kg và 13 chiếc mang bom 225 kg. Tất cả do trung tá Wilmer Gallaher chỉ huy, xuất kích lúc 15:30 từ tàu sân bay Enterprise.
Lúc 16:30, tàu sân bay Hornet cũng phóng thêm một phi đội oanh tạc cơ.
Lúc 17:03, phi đội đầu tiên đến nơi và bắt đầu tấn công. 4 trái bom đánh sập tháp chỉ huy, lửa bùng cháy lên kinh khiếp và lan ra nhanh chóng. Những chiếc phi cơ chuẩn bị cất cánh đậu san sát bên nhau trên sàn tàu đã là một mồi lửa tuyệt vời. Chỉ cần một chiếc phi cơ phía ngoài bén lửa bắt cháy thì bình xăng và những quả bom treo hai bên cánh phát nổ. Bom càng nổ thì lửa càng cháy to, thử tưởng tượng với vài chục chiếc phi cơ nổ tung như thế thì sức công phá của nó kinh khủng đến thế nào. Ở đây không cần phải nói đến tình trạng của chiếc Hiryu nữa.
Sau đó oanh tạc cơ của chiếc Hornet đến, thấy tàu sân bay đang cháy dữ dội, họ lựa các tàu khác để tấn công. Rồi oanh tạc cơ B17 của lục quân đóng ở Midway cũng đến tham chiến.
Suốt 9 tiếng đồng hồ sau đó, người Nhật cố gắng chế ngự hỏa hoạn nhưng cuối cùng hầm đạn cũng phát nổ. Chuẩn đô đốc Yamaguchi và hạm trưởng Tomeo Kalu ra lệnh cho mọi người rời tàu. Hai vị chỉ huy quyết định ở lại và hy sinh cùng Hiryu sáng sớm ngày 5-6-1942.
Chỉ huy hạm đội xung kích là Nagumo, ông cùng Tướng Kusaka hiện đang có mặt trên soái hạm mới là chiếc Nagara. Mũi xung kích tuy rằng như con cua gãy càng, tuy nhiên Kusaka vẫn nuôi ý tưởng tiếp tục truy kích, hy vọng sẽ diệt được một vài tàu sân bay địch mới thỏa được mối hận ngút trời này. Mặc dù thân đang mang trọng bệnh lại bị bỏng cả hai bàn tay, một chân bị thương vì ngã trong lúc di tản khỏi chiếc soái hạm Akagi, nhưng ông vẫn mặc kệ, cố bước khập khễnh lên cầu chỉ huy để nài nỉ Namugo chuẩn bị kế hoạch tấn công vào lúc đêm tối mà lực lượng chính yếu chỉ là khu trục hạm, tuần dương hạm và thiết giáp hạm. Theo kế hoạch này thì toàn lực lượng còn lại phải xuất đầu lộ diện, hạm đội hai bên mặt đối mặt tranh tài cao thấp đây. Kusaka giọng cương quyết nói "Bây giờ chính là lúc tôi phải ra tay đây. Những gì còn lại của hạm đội lừng danh Kido Butai sẽ phải cố gắng làm lại từ đầu".
Spruance cũng đoán được những dự định của Hải quân Nhật nên ông tỏ ra rất cẩn trọng để quyết đoán. Trong lòng ông thì lúc nào cũng rất bồn chồn chỉ muốn mạo hiểm cùng họ tranh hùng một trận  rồi ra sao thì ra. Nhưng lời dặn dò của Đô đốc là phải nên cân nhắc sự việc kỹ càng trước khi hành động . Vừa rồi Hải quân của chúng ta cũng liều lĩnh thật, nhưng sự liều lĩnh này đã mang lại một kết quả ngoài sức tưởng tượng. Có lẽ chỉ huy Nhật đặt kỳ vọng vào một thử thách cuối cùng này, hơn nữa thủy thủ của họ sở trường là đánh đêm trong khi phía Hoa Kỳ thì chưa từng được huấn luyện nên không có tí gì về chiến thuật xung trận lúc tối trời. Thôi thì lần này ta không nên mạo hiểm, tránh chạm trán với những con người liều lĩnh coi chết như chơi này cũng đáng ngại lắm. Nghĩ như thế nên ông ta ra lệnh cho hạm đội di chuyển về hướng Đông mất dạng.
Bây giờ đã gần 7 giờ tối. Đêm đã xuống từ lâu, bầu không gian trở nên tỉnh mịch lạ thường. Gió hiu hiu nhẹ không đủ sức làm gợn mặt đại dương im ắng. Sao giăng nhấp nháy đầy trời, không biết đêm nay những tinh tú trời cao này đang e ấp thẹn thùng hay sụt sùi thương cảm nhỏ giọt chứa chan cho những chàng thủy thủ xa nhà đang dấn thân vào lửa đạn. Đó là những chàng trai quên mình vì tổ quốc. Hoặc Nhật Bản, hoặc Hoa Kỳ. Không biết đêm nay sẽ có bao nhiêu vì sao rơi rụng, bao nhiêu linh hồn vô danh sẽ nằm lại vĩnh viễn giữa lòng đại dương mênh mông này.
Vùng biển phía Tây Bắc Midway đêm nay được thắp sáng bởi những ánh đuốc khổng lồ, đó là những tàu sân bay đang trôi dạt bồng bềnh mà ánh lửa vẫn còn đỏ rực, soi sáng cả một vùng không gian âm u đen đặc. Trên một chiếc khu trục hạm, những thủy thủ còn sống sót sau những trận chiến kinh hồn trọn cả ngày bây giờ đưa đôi mắt tuyệt vọng nhìn theo chiếc tàu sân bay Soryu đang từ từ nghiêng hẳn về một bên rồi chìm dần vào lòng đại dương. Lúc 7:13 hôm sau thì ánh đuốc khổng lồ ấy tắt hẳn, để lại vô số bọt nước sủi lên sùn sụt như để đánh dấu nơi yên nghỉ ngàn thu của một con tàu, nơi chôn vùi những chiến công oanh liệt của một thời dọc ngang trên sóng nước . Và cũng tại nơi ấy cũng là nấm mộ tập thể của 718 thủy thủ.
Cách đó bốn mươi dặm về hướng Nam, ngọn lửa khủng khiếp vẫn đang tàn phá tàu sân bay Kaga. Sau hai tiếng nổ kinh hồn, toàn thân Kaga bị bẻ gãy đôi và chìm sâu vào lòng biển cả, nó mang theo một thủy thủ đoàn 811 người bất hạnh.
Lại nói về lực lượng sức càng gãy gọng của Nagumo. Sau khi được Kusaka thuyết phục phải trả thù bằng mọi giá, họ âm thầm trong bóng đêm đen quyết tìm cho được hạm đội Hoa Kỳ để thanh toán. Nhưng sau mấy tiếng đồng hồ tìm kiếm vẫn không dò được bóng dáng hạm đội địch. Nagumo chán nản ra lệnh cho toàn bộ chiến hạm còn lại rút về phía Tây Bắc. Vị sĩ quan hạm trưởng Oishi từng vẽ ra chiến dịch tấn công Trân Châu Cảng bây giờ bị rơi vào tình trạng khủng hoảng tinh thần hết sức trầm trọng. Ông chạy vào văn phòng của khu bệnh viện để tìm Tướng Kusaka. Gặp Kusaka, Oishi nói ngay "Chúng ta đang thi hành nhiệm vụ thì chúng ta phải chịu hết trách nhiệm của sự thất bại này. Tất cả chúng ta nên phải lấy cái chết để chịu tội với Thiên Hoàng và quốc gia" Ông còn cho biết là những sĩ quan tham mưu cũng có cùng một ý nghĩ và bây giờ muốn Kusaka đem việc này trình lại với Đô đốc Namugo.
Kusaka quắc mắt nhìn Oishi một chập rồi dõng dạc nói "Tốt! Hãy cho gọi tất cả sĩ quan tham mưu ngu ngốc ấy vào phòng họp lập tức".
Kusaka vẫn với bộ đồ trắng dành cho người bệnh chưa xuất viện, ông khập khễnh đi đến phòng họp, ở đó đã có sẳn những sĩ quan tham mưu. Kusaka vào đề ngay "Quý vị đã cùng chúng tôi sát cánh bên nhau , khi chiến thắng thì chúng ta cùng hân hoan chia sẻ , nhưng khi kết quả ngược lại thì quý vị quyết chí toan tự tử để chạy tội sao ? Hành động này không khác gì những người phụ nữ yếu mềm, chẳng biết dùng trí óc để xét đoán mà chỉ biết cam phận trước mắt mà thôi". Nói xong ông lên phòng chỉ huy tìm gặp Nagumo. Vừa gặp vị Đô đốc chỉ huy, Kusaka hỏi ngay "Đô đốc cũng định tự sát nữa hay sao ?". Nagumo chỉ buồn bã đưa mắt nhìn ông. Kusaka bèn bắt đầu bằng một bài thuyết khách dài thườn thượt, nào là nhiệm vụ chưa thành hãy để tâm trí vào việc hành quân bố trận cớ gì lại bi quan nghĩ quẩn. Thiên Hoàng đã đặt tất cả niềm tin và tổ quốc cũng đang cần những quân nhân như chúng ta, tại sao lại phải tự tử. Tự tử là hèn nhát là trốn chạy trách nhiệm mà Thiên Hoàng và tổ quốc đã phó thác cho chúng ta. Ông lại khuyên rằng Nagumo lại là chỉ huy trưởng của một hạm đội, điều đó nói lên ông phải sống còn mà cáng đáng bổn phận. Nói xong Kusaka vỗ vai người chỉ huy nhỏ con mà nói "Daijobu" tức là "Đừng có lo".
Với sự hủy diệt của tàu sân bay thứ 4 trong Lực lượng đột kích của phó đô đốc Nagumo, hải quân Nhật mất đi một phần lớn sinh lực. Tính chung toàn trận đánh, người Nhật mất 4 tàu sân bay, 1 tuần dương hạm nặng, 6 hạm tàu khác, cùng 332 máy bay và 3.500 sinh mạng. Người Mỹ chỉ mất 1 tàu sân bay, 1 khu trục hạm, 147 máy bay và 307 sinh mạng.
Vào những giờ đầu tiên của ngày 4 tháng 6, Bộ tư lệnh hạm đội Liên hợp tập trung trên đài chỉ huy của siêu thiết giáp hạm Yamato.
Mặt trời mọc vào lúc 4:32 nhưng mây mù dày đặc, mọi người tự hỏi, không biết tàu sân bay của đô đốc Nagumo có thể phóng máy bay được không ?
Lúc ấy, Bộ tư lệnh cách đảo Midway 800 dặm, cách đội tàu sân bay 600 dặm.
Lúc 5:55, bộ phận điện đài của chiếc Yamato bắt được điện của máy bay quan sát báo về cho hạm đội hành quân biết đã gặp 15 máy bay địch bay về hướng các tàu sân bay nhưng không khí chung ở Bộ tư lệnh là lạc quan.
Sau đó, nghe thêm những câu nói của phi đoàn trưởng Tomonaga, người chỉ huy các máy bay đợt một dội bom Midway, yêu cầu cho xuất kích đợt hai.
Mọi người trong Bộ tư lệnh chờ mãi mà không nghe gì về việc đợt máy bay thứ hai xuất kích. Trái lại, lúc 7:40 lại nghe máy bay trinh sát báo là gặp 10 tàu địch.
Chừng ấy mọi người mới ngẩn ra. Sĩ quan quân báo ngồi yên, nhìn xuống, trong lúc bao nhiêu cặp mắt nhìn vào ông ta như thầm trách móc: "Tình báo mà không biết cái gì hết. Nó ở gần bên hông mà cứ cho là nó ở tận mãi đâu đâu".
Nhưng dù sao, họ cho rằng tình hình vẫn chưa xấu lắm!
Đến 8:30 mới biết là đã thấy một tàu sân bay địch.
Lúc ấy, Cục trưởng hành quân mới nhớ ra rằng: "Ủa, sao chưa thấy Nagumo cho xuất kích đợt hai?". Nhưng họ còn bám vào hy vọng: đợt hai chưa xuất kích đánh Midway thì chắc chắn sẽ xuất kích đánh đoàn tàu địch. Nhưng họ không hề biết nỗi lẩn quẩn của Chuichi Nagumo, thay ngư lôi bằng bom, rồi thay bom bằng ngư lôi và cuối cùng quân địch kéo tới...
9 giờ, máy phóng thanh cho hay 10 máy bay cất cánh từ tàu sân bay địch, tiến về hạm đội Nagumo. Rồi im bặt. Mọi người chờ đợi. 10:50, trung tá Mado, trưởng phòng truyền tin vào phòng họp, chào tư lệnh Yamamoto. Không nói một câu nhưng mắt ứa lệ, ông trao cho Tư lệnh một bức điện vừa nhận được của Nagumo: "Các tàu sân bay Kaga, Soryu, Akagi bốc cháy vì bị máy bay của đảo và của tàu sân bay địch tấn công. Chúng tôi dự định phóng máy bay từ chiếc Hiryu để tấn công hạm đội địch. Chúng ta cần tạm thời rút về phía bắc để tập hợp lại lực lượng".
Yamamoto im lặng, mọi người im lặng. Mong mỏi chiến thắng xem dễ như trở bàn tay, giờ đây 75% sinh lực bị mất đi. 
Khi ấy Yamamoto mới quyết định: Tập trung mọi lực lượng về tiếp cứu cho Nagumo. Mặc cho trời xấu, sương mù dày đặc, đoàn chiến hạm của ông cứ tiến tới với tốc độ 22 hải lý/giờ. Ông lại ra lệnh cho đoàn tàu đánh quần đảo Aleutian lui về họp đoàn. Nhưng Yamamoto còn cách Nagumo quá xa, không sao ứng cứu kịp. Lúc 16 giờ 15, chuẩn đô đốc Tamon Yamaguchi điện về cho Yamamoto "Địch quân có 3 tàu sân bay, 5 tuần dương hạm, 15 khu trục hạm. Chúng tôi đã diệt xong 2 chiếc" (Thực ra họ đã đánh hai lần vào một tàu sân bay là chiếc Yorktown)
17:36: "máy bay trinh sát cho hay địch rút về phía Đông"
17 giờ 55: "Đô đốc Nagumo điện về cho biết tàu sân bay Hiryu bị máy bay địch đánh cháy. Thế là đã mất trọn tất cả 4 chiếc tàu sân bay của Lực lượng đột kích".
Trong cơn thất vọng lớn lao, mọi người đều đề nghị tập trung tất cả lực lượng còn lại tiến đến Midway, dùng hải pháo oanh tạc để hủy diệt đảo này. Nhưng đô đốc Ugaki, tham mưu trưởng nói: "Làm như thế là điên rồ và tự sát. Các thiết giáp hạm, đặc biệt là chiếc Yamato sẽ bị máy bay và tàu ngầm địch đánh chìm trước khi đến gần đảo. Trong đánh giặc cũng như đánh cờ, dễ thua vì mất bình tĩnh. Ta hãy kiên trì, rút kinh nghiệm và đợi dịp khác vậy".
Một sĩ quan tham mưu nóng nảy nói: "Làm sao có thể báo cáo lên Thiên hoàng về thất bại này được?".
Tức thì đô đốc Yamamoto cất tiếng: "Đó là việc của tôi. Tôi nhận lãnh trách nhiệm báo cáo việc này lên Thiên hoàng". Qua câu này, mọi người đều hiểu: ông ta bỏ kế hoạch hành quân Midway.
Đáng lý ra lục quân Nhật sẽ đổ bộ lên đảo Midway sáng ngày 6-6. Nhưng hôm nay ngày 5-6, hạm đội Nhật thảm bại hướng mũi quay về. Trận hải chiến lớn nhất trong lịch sử chiến tranh nhân loại đã kết thúc.
Mọi mục tiêu chiến lược của kế hoạch đánh chiếm Midway đã tiêu tan. Hải quân Hoàng gia đã mất đi một quả đấm thép. Người Mỹ bảo vệ được "con đê" của họ, giữ được quyền kiểm soát Thái Bình Dương và từ nay không lùi bước nữa.
"Hải quân đã phạm một sai lầm lớn!" - Tướng Moritake Tanabe, phó tổng tham mưu tưởng lục quân phán xét. Còn tham mưu trưởng của hạm đội Liên hợp, đô đốc Ugaki thì nói rằng: "Chiến tranh là một chuỗi sai lầm mà cả hai bên đều phạm phải. Chiến thắng về với kẻ nào ít phạm lỗi lầm nhất".

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét